Hướng dẫn Hỏi đáp Quy định
  • EnglishEnglish
  • Những rào cản trong phát triển doanh nghiệp kinh doanh du lịch vừa và nhỏ ở Việt Nam

    itdrlogo2012

       Những năm gần đây, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh du lịch ở Việt Nam ngày càng khẳng định được sứ mệnh của mình trong phát triển Ngành, góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, Doanh nghiệp du lịch Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển, có điểm xuất phát thấp so với doanh nghiệp trong nhiều ngành khác của nền kinh tế. Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, sự ủng hộ của các Bộ, ngành, các cấp, doanh nghiệp Du lịch Việt Nam đã từng bước khẳng định được vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Sự nỗ lực của doanh nghiệp Du lịch trong thời gian qua đã đem lại hiệu quả nhiều mặt cho ngành Du lịch nói riêng và cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước nói chung, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng tỷ trọng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
        Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về điểm đến du lịch giữa các quốc gia trong khu vực và giữa các khu vực trên thế giới, bên cạnh đó cũng chịu sự ảnh hưởng của những biến động về kinh tế, chính trị toàn cầu và khu vực, doanh nghiệp du lịch trong cả nước vẫn đảm bảo tăng trưởng với sự mở rộng quy mô về cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ du lịch, hệ thống hạ tầng.
    Tuy nhiên, bên cạnh sự ủng hộ và quan tâm của các cấp các ngành, doanh nghiệp Du lịch Việt Nam đang phải đối mặt với những rào cản đến từ tình hình bất ổn của thế giới và từ chính trong nền kinh tế, chính những rào cản này đã vô hình làm giảm sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam.
    1. Một số kết quả đóng góp của doanh nghiệp du lịch đạt được trong thời gian qua
    1.1. Tác động về kinh tế xã hội
    Du lịch là một trong những ngành tạo ra nhiều việc làm nhất trên thế giới, ở tất cả các địa bàn từ các vùng đô thị, nông thôn và đặc biệt là ở cả vùng sâu, vùng xa. Theo mục tiêu trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam, năm 2020 Du lịch sẽ tạo ra trên 3 triệu việc làm (trong đó 870.000 việc làm trực tiếp). Du lịch góp phần vào xóa đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Các hoạt động du lịch phát triển ở các vùng nông thôn tạo ra nhiều cơ hội cho cộng đồng địa phương. Các hoạt động gắn với du lịch cộng đồng tạo thu nhập trực tiếp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng dịch vụ và phát triển bền vững.
    1.2. Thu hút và phục vụ thị trường khách du lịch
    Trong suốt hơn 2 thập kỷ qua, số lượng khách quốc tế đến du lịch Việt Nam tăng trưởng mạnh với tốc độ trung bình trên 12% mỗi năm (ngoại trừ suy giảm do dịch SARS 2003 (-8%) và suy thoái kinh tế thế giới 2009 (-11%). Từ năm 1990
    với 250.000 lượt khách quốc tế, đến nay Du lịch Việt Nam đã đạt 7,944 triệu lượt năm 2015. Khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng trên 31 lần trong 25 năm và tăng trên 2 lần sau 4 năm phục hồi khủng hoảng năm 2009. Khách du lịch nội địa cũng tăng mạnh liên tục trong suốt giai đoạn vừa qua, từ 1 triệu lượt năm 1990 đến 2015 đạt con số 57 triệu lượt. Sự tăng trưởng không ngừng về khách đã thúc đẩy mở rộng quy mô hoạt động của ngành du lịch trên

    1.3. Gia tăng nhanh tổng thu từ khách du lịch và đóng góp vào GDP
    Sự đóng góp của du lịch vào nền kinh tế nước ta giai đoạn vừa qua rất đáng khích lệ. Tổng thu từ khách du lịch năm 2015 đạt 337.83 nghìn tỷ đồng đóng góp khoảng 5.5% và GDP, tăng 6.2% so với năm 2014. Tăng trưởng về tổng thu từ khách du lịch nhìn chung nhanh hơn tăng trưởng về số lượng khách, tăng trung bình hơn 2 con số (đạt bình quân khoảng 18,7%/năm).
    2. Hệ thống các đơn vị kinh doanh du lịch.
    Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng tăng nhanh, lực lượng kinh doanh du lịch đang phát triển mạnh, thích nghi dần với cơ chế mới, từng bước làm ăn có hiệu quả. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế.
    2.1. Kinh doanh lữ hành
    Theo báo cáo của Tổng cục Du lịch, tính đến năm 2015, cả nước có 1.519 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 7 doanh nghiệp nhà nước, 475 công ty cổ phần, 15 công ty liên doanh, 1.012 công ty TNHH và 10 doanh nghiệp tư nhân và hơn 10.000 doanh nghiệp lữ hành nội địa. Đây là lực lượng làm du lịch đóng vai trò nòng cốt, trực tiếp khai thác và phân phối phần lớn số lượng khách du lịch cho các doanh nghiệp phục vụ khác tham gia vào chuỗi giá trị du lịch. Đồng thời, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành cũng là một trong những lực lượng đi đầu trong việc khai thác, sáng tạo, phát triển các tour du lịch đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng và yêu cầu chất lượng cao từ phía khách du lịch. Điều này khiến cho các doanh nghiệp lữ hành đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngành du lịch.
    2.2. Kinh doanh lưu trú
    Kinh doanh lưu trú là thành phần tham gia quan trọng vào chuỗi giá trị du lịch. Hiện nay tại Việt Nam, cơ sở lưu trú rất đa dạng và phong phú về loại hình và quy mô nhằm đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của các loại đối tượng khách. Việc phát triển các loại hình cơ sở lưu trú du lịch không những tạo nét độc đáo của khu du lịch mà còn nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư. Cơ sở lưu trú du lịch bao gồm các công trình kiến trúc đặc biệt nhằm đảm bảo nơi ngủ và nghỉ ngơi, giải trí cho khách du lịch, vì vậy cơ sở lưu trú là thành phần cơ bản nhất cho toàn hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành Du lịch bởi chúng đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất của con người khi đi du lịch. Kinh doanh lưu trú du lịch bao gồm kinh doanh các cơ sở lưu trú du lịch như: khách sạn (hotel), làng du lịch (tourist village), biệt thự du lịch (tourist villa), căn hộ du lịch (tourist apartment), bãi cắm trại du lịch (tourist camping), nhà nghỉ du lịch (tourist guest house), nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê (homestay), và ác cơ sở lưu trú du lịch khác gồm tàu thủy du lịch, tàu hỏa du lịch, ca-ra-van (caravan), lều du lịch…
    Đến năm 2015 cả nước đã có 18.800 cơ sở lưu trú với tổng số 355.000 buồng được xếp hạng, (trong đó 5 sao 24.212 buồng chiếm 6.82%; 4 sao 27.379 buồng chiếm 7.71%; 3 sao 30.734 chiếm 8.65 %). Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh lưu trú du lịch, hoạt động ở hầu hết các địa phương cả nước. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch phát triển phong phú, đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau: quốc doanh, tập thể, liên doanh đầu tư trong nước, liên doanh đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, khách sạn thuộc thành phần kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc đón tiếp và phục vụ khách du lịch, khách sạn tư nhân có số lượng ít hơn, quy mô nhỏ song cũng góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Khách sạn liên doanh với nước ngoài là những khách sạn có chất lượng trang thiết bị đạt tiêu chuẩn cao. Các khách sạn này phần lớn đều nằm ở những trung tâm du lịch, thành phố lớn.
    Hiện nay kinh doanh lưu trú du lịch vẫn còn còn một số điểm bất hợp lý: cơ sở lưu trú phân bố không đều, chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn. Tại một số địa bàn, đặc biệt các khu vực có tiềm năng và nhu cầu phát triển du lịch cao, số lượng cơ sở lưu trú còn thiếu và yếu về chất lượng. Về loại hình, mặc dù trong những năm qua, ngành du lịch đã định hướng phát triển đa dạng loại hình cơ sở lưu trú. Về quy mô, nhìn chung các cơ sở lưu trú còn có quy mô nhỏ. Hiện nay số cơ sở lưu trú đạt từ 3 sao trở lên có 402 khách sạn, vẫn còn ít so với nhu cầu du lịch đang tăng nhanh. Điều đó là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho giá cả dịch vụ lưu trú du lịch ở Việt Nam, đặc biệt là các khách sạn từ 3-5 sao vẫn cao hơn một số nước trong khu vực và giá cả thường không ổn định.
    2.3. Kinh doanh ăn uống 
    Cùng với sự tăng trưởng về khách du lịch và hệ thống các cũng như các cơ sở lưu trú, hệ thống các cơ sở kinh doanh ăn uống ở các tỉnh trong cả nước phát triển nhanh về số lượng và qui mô, từng bước đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ đều có phòng ăn, quầy bar… không chỉ phục vụ cho khách nghỉ tại khách sạn mà còn phục vụ cả khách bên ngoài. Các cơ sở ăn uống nằm ngoài khách sạn cũng phát triển mạnh, hầu hết các thành phần kinh tế đều tham gia kinh doanh dịch vụ này.
    2.4. Kinh doanh các cơ sở vui chơi giải trí
    Việc mở rộng, phát triển các cơ sở vui chơi giải trí là xu hướng của du lịch hiện đại bởi vậy các khu du lịch, trung tâm thể thao, sân golf, công viên chủ đề và cơ sở vui chơi giải trí đã được xây dựng và đưa vào hoạt động đang trở thành những điểm thu hút mạnh mẽ về khách du lịch; Một số khu du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, thể thao, sân golf đã được đưa vào hoạt động, đáp ứng một phần nhu cầu của khách du lịch và nhân dân địa phương.
    3. Những rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp du lịch Việt Nam
    3.1. Những rào cản từ bên ngoài
    Các nước thành công trong phát triển du lịch đều là những nước thắng lợi trong cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, quốc gia nào không chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh (NLCT) sẽ không thu hút được nhiều khách du lịch và thất bại trong cạnh tranh. Ngược lại, quốc gia nào có chiến lược cạnh tranh toàn diện, biết đặt trọng tâm nâng cao NLCT, vị thế cạnh tranh của nước đó sẽ được khẳng định, hiệu quả thu hút khách du lịch sẽ ngày càng cao. Với ảnh hưởng ngày càng tăng của cạnh tranh, các nước quan tâm phát triển du lịch buộc phải nỗ lực tìm mọi cách tạo sản phẩm khác biệt để thu hút khách du lịch. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực xây dựng thương hiệu riêng và sử dụng các phương tiện marketing hiện đại để thu hút khách du lịch. Nói cách khác, cạnh tranh giữa các nước du lịch phát triển làm gia tăng nỗ lực sử dụng các biện pháp tạo lợi thế cạnh tranh.
    Cùng với xu thế phát triển chung của du lịch toàn cầu và khu vực, những năm gần đây, Du lịch Việt Nam đã tăng trưởng khá nhanh, trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Du lịch phát triển đã góp phần tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập ngoại tệ, cải thiện kết cấu hạ tầng và nhiều lĩnh vực trọng yếu khác. Tài nguyên thiên nhiên, nhân văn đa dạng và vị trí địa lý thuận lợi là những nguồn lực và nhân tố quan trọng đối với sự phát triển du lịch ở Việt Nam. Tuy nhiên, lượng khách quốc tế đến Việt Nam và thu nhập từ du lịch còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn. Trong bảng xếp NLCT du lịch của Diễn đàn kinh tế thế giới từ năm 2007 đến nay, Việt Nam luôn ở thứ hạng thấp hơn so với một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Trung Quốc. Các nước trên đều thành công trong cạnh tranh thu hút khách quốc tế và trở thành điểm đến quen thuộc được biết đến rộng rãi trên thị trường du lịch thế giới.
    Suy thoái kinh tế và bất ổn chính trị trong khu vực và quốc tế
    Khủng khoảng kinh tế năm 2009 kéo theo tái cơ cấu kinh tế toàn cầu và trong nước tác động tới cơ cấu đầu tư và chi tiêu du lịch, ảnh hưởng các dịch vụ trong nước, thay đổi dòng vốn đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của các thị trường mục tiêu ngoài nước. Bên cạnh đó, những vấn đề kinh tế xảy ra khoảng cuối năm 2014, đầu năm 2015 ở nhiều nước trên thế giới cũng mang đến nhiều tác động bất lợi tới du lịch.
    3.2. Những rào cản từ trong nước
    Liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp lớn
    Đặc tính chung của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam là có quy mô nhỏ. Nhiều công ty lữ hành chỉ có dưới 10 nhân viên. Trên 50% cơ sở lưu trú du lịch có quy mô dưới 20 buồng. Các doanh nghiệp nhỏ đóng một vai trò quan trọng ngành công nghiệp du lịch Việt Nam. Có thể ước tính rằng hơn 75% số doanh nghiệp du lịch Việt Nam có thể được xếp vào loại là doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), bao gồm: cơ sở lưu trú, giao thông vận tải, công ty lữ hành và các văn phòng du lịch, cung ứng thực phẩm và đồ uống, v.v. Mặc dù công tác quản lý của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều hạn chế, nhưng các doanh nghiệp này vẫn có xu hướng phát triển nhanh do chúng đáp ứng được các nhu cầu đa dạng từ sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành du lịch.
    Do hầu hết các doanh nghiệp du lịch nhỏ không đủ khả năng tiếp cận trực tiếp với thị trường nguồn khách du lịch nên họ phải liên kết với các doanh nghiệp lớn để nhận được sự phân phối lại nguồn khách. Do có quy mô nhỏ nên việc kinh doanh còn mang tính manh mún, phân tán, sức cạnh tranh yếu. Mặt khác việc nâng cao chất lượng phục vụ gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong khai thác và bổ sung các dịch vụ. Khi số lượng khách du lịch tăng lên, du lịch đã trở thành một ngành công nghiệp thì những doanh nghiệp có qui mô nhỏ sẽ bị hạn chế trong đón tiếp, phục vụ các đoàn khách du lịch lớn và áp dụng những công nghệ quản lý tiên tiến hiện đại.
    Liên kết liên ngành, liên vùng còn lỏng lẻo, kém hiệu quả
    Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Sản phẩm du lịch sử dụng các yếu tố đầu vào từ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên ngành du lịch hoạt động trong bối cảnh chưa có sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ bởi các ngành liên quan. Sự phối kết hợp liên ngành, địa phương chưa đồng bộ, không thường xuyên cả trong nhận thức và hành động. Sự liên kết giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương chưa thật chặt chẽ trong xây dựng chính sách. Phối hợp giữa các Sở, Ban, ngành trong từng địa phương về phát triển du lịch còn rất hạn chế. Phối hợp liên vùng đã bắt đầu được chú ý, nhưng còn lúng túng trong nội dung, chưa rõ ràng trong phân công, phân nhiệm và giải pháp để phát triển du lịch.
    Chất lượng sản phẩm, khai thác phát triển sản phẩm và điểm đến du lịch
    Cơ sở hạ tầng du lịch từng bước được đầu tư nhưng sự thiếu đồng bộ, còn chắp vá trong phát triển hạ tầng làm cho du lịch chưa thực sự được phát huy, chưa thuận tiện tiếp cận các điểm đến, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt là các khu du lịch vùng sâu, vùng xa, núi cao, hải đảo. Môi trường du lịch trên phạm vi cả nước, đặc biệt ở những địa bàn trọng điểm phát triển du lịch như Hạ Long, Cát Bà, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu… đã có sự suy thoái do tác động của hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Hiện tại, ở nhiều địa phương đang tồn tại sự bất công bằng trong phân chia lợi ích kinh tế do tăng trưởng du lịch mang lại dẫn tới sự xung đột về lợi ích giữa các ngành, các địa phương, giữa các nhóm đối tượng, dẫn tới những tác động tiêu cực nhiều mặt. Khai thác quá mức, bừa bãi, tự phát (không theo quy hoạch), thiếu trách nhiệm hoặc trách nhiệm không rõ ràng, gây ô nhiễm, quá tải, tạo ra những tác động, hệ lụy tiêu cực và làm cho tài nguyên du lịch có nguy cơ suy thoái nhanh.
    Các cơ quan quản lý
    Mặc dù đã có sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý để phát triển du lịch, tuy nhiên hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong mối liên kết phát triển du lịch. Sự liên kết giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương vẫn chưa thật chặt chẽ trong xây dựng chính sách và trong điều hành. Sự phối kết hợp liên ngành, địa phương vẫn chưa đồng bộ, không thường xuyên cả trong nhận thức và hành động. Sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành trong từng địa phương để phát triển du lịch vẫn còn rất hạn chế. Chưa giải quyết được dứt điểm tình trạng ăn xin, đeo bám, chèo kéo, gây phiền hà cho khách ở nhiều điểm du lịch; tình trạng ô nhiễm môi trường du lịch, suy thoái tài nguyên môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn, an ninh tại các điểm tham quan du lịch xẩy ra tương đối phổ biến. Quản lý tài nguyên thiếu thống nhất, triệt để; mâu thuẫn về lợi ích trong khai thác tài nguyên dẫn tới nguy cơ bị tàn phá, suy thoái nhanh; môi trường du lịch tự nhiên và nhân văn bị xâm hại.
    Các doanh nghiệp tư nhân
    Hạn chế cơ bản của các doanh nghiệp tư nhân trong du lịch là thiếu sự liên kết chặt chẽ như một hệ thống để đạt được sự thống nhất cao trong kinh doanh, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong khu vực. Một vấn đề khác cần quan tâm đặc biệt là chất lượng đội ngũ lao động thuộc các doanh nghiệp tư nhân. Theo báo cáo của các cơ quan quản lý, phần lớn lực lượng lao động thuộc các doanh nghiệp du lịch tư nhân chưa qua đào tạo bài bản (thường tập trung tại các địa phương du lịch chưa phát triển mạnh, nơi du lịch hoạt động theo mùa vụ…). Ngoài ra sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào quy trình hoạch định chính sách và lập kế hoạch còn hạn chế, có rất ít mối quan hệ đối tác giữa các cơ sở công và cơ sở tư nhân.
    Xây dựng và quảng bá hình ảnh về du lịch Việt Nam
    Du lịch Việt Nam còn thiếu những sản phẩm du lịch đặc sắc mang bản sắc riêng của Việt Nam; sản phẩm còn kém sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế và do vậy khó thu hút được thị trường khách có khả năng chi trả cao; chưa có những thương hiệu du lịch nổi bật.
    Khoảng cách về lượng khách quốc tế giữa Việt Nam với 04 nước dẫn đầu khu vực là Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia luôn trong khoảng từ 2-5 lần; khoảng cách về thu nhập từ khách du lịch cùng thời kỳ luôn nằm trong khoảng từ 1,5 đến 4,0 lần. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam chưa cao, năm 2015 Việt Nam xếp thứ 75/141 nước, trong khi Singapore xếp thứ 11, Malaysia xếp thứ 25, Thái Lan xếp thứ 35 (Diễn đàn kinh tế Thế giới 2015), đặc biệt về cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận điểm đến, visa cửa khẩu, môi trường pháp lý, mức độ ưu tiên cho du lịch, lĩnh vực đào tạo…
    – Vấn đề tồn tại về môi trường kinh doanh du lịch
    Môi trường kinh doanh du lịch của Việt Nam một mặt chịu ảnh hưởng bởi biến động của môi trường kinh doanh quốc tế, mặt khác bản thân nó cũng còn nhiều vấn đề tồn tại, công tác quản lý điểm đến bộc lộ còn nhiều yếu kém. Môi trường du lịch ở địa phương còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa tạo được chuyển biến tích cực, ảnh hưởng tiêu cực tới việc thu hút khách du lịch. Thái độ phục vụ khách kém, tình trạng mất an toàn giao thông vẫn diễn ra nghiêm trọng. Tình trạng lừa đảo, ăn xin, bán hàng rong, chèo kéo, bắt chẹt khách ngày càng diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương. Vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn là vấn đề gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân và khách du lịch.
    Thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp
    Hiện nay, ngành Du lịch và Thương mại dịch vụ đều gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế. Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt hiện nay, việc giá các mặt hàng thiết yếu như xăng, điện cũng như khung giá thuế đất tăng làm cho giá dịch vụ du lịch trong nước tăng cao, trong khi giá dịch vụ du lịch của các nước xung quanh lại có xu thế giảm đã làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam và không kích thích phát triển ngành dịch vụ trong nước.
    Thuế đất các khách sạn, các điểm đến và các khu resort
    Hiện nay, với việc khung giá đất mới được điều chỉnh tăng gấp nhiều lần đã làm cho nhiều doanh nghiệp đang từ chỗ kinh doanh hiệu quả lâm vào tình trạng thua lỗ. Đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, tùy theo vị trí địa bàn, các khách sạn phải chịu thuế đất đồng hạng cho phần diện tích sân vườn, cảnh quan như là phần đất xây dựng cơ sở lưu trú, việc này ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng cơ cấu giá, làm giảm tính cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp. Đặc biệt là, việc áp dụng khung giá thuê đất kinh doanh du lịch tại các đảo đắt hơn trong đất liền chưa thể hiện chính sách khuyến khích đầu tư nhằm tăng cường chủ quyền biển đảo.
    Giá điện tính theo giờ cao điểm đối với doanh nghiệp kinh doanh lưu trú
    Các Doanh nghiệp kinh doanh loại hình lưu trú, với đặc thù của ngành kinh doanh, chỉ có buổi tối và đêm thì khách mới về khách sản và sử dụng sản phẩm, việc áp dựng giá điện theo thời gian, giờ thiêu thụ điện vào ban đêm, việc này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
    Vấn đề miễn thị thực cho những thị trường trọng điểm
    Trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giưới, việc miễn thị thực cho công dân các nước là một chủ trương quan trọng và nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút khách du lịch đến với Việt Nam, Việc thực hiện miễn thị thực có thể thực hiện đa phương, đơn phương, song phương. Trên thực tế, Việt Nam vẫn hạn chế việc miễn thị thực cho một số thị trường lớn và vẫn còn nhiều bất cập trong việc cấp thị thực trực tuyến, gây nhiều phiền hà cho khách trong việc xin được cấp thị thực tại sân bay, việc này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút khách tới Việt Nam du lịch và ấn tượng đầu tiên về Việt Nam.
    4. Khuyến nghị và Kết luận
    4.1. Khuyến nghị
    Xuất phát từ tình hình thực tiễn hoạt động du lịch, để tạo điều kiện cho ngành Du lịch phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh và giúp cho các doanh nghiệp phát triển. Việt Nam cần phải sớm cái cách một số chính sách về phát triển Du lịch như sau:
    + Hình thành một khung thể chế hiện đại hướng tới phát triển du lịch bền vững
    Trong giai đoạn vừa qua sự tăng trưởng nhanh vượt khỏi tầm kiểm soát đi kèm với thiếu nguồn nhân lực có chất lượng đã tác động xấu đến việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của ngành du lịch. Trong một số trường hợp, sự tăng trưởng nhanh đã làm huỷ hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hoá, làm cho người dân không được hưởng lợi ích từ sự tăng trưởng này và làm tổn hại đến chất lượng của một số điểm đến du lịch. Hệ quả là nhiều sản phẩm du lịch được tạo ra thiếu tính cạnh tranh và chất lượng cần thiết để đóng góp tối đa cho việc thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Chính vì vậy trong giai đoạn phát triển tới các cơ quan của Chính phủ cần thống nhất:
    – Điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi hệ thống luật pháp, văn bản pháp quy, chính sách quản lý liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động du lịch theo định hướng phát triển du lịch bền vững.
    – Xây dựng các chiến lược, kế hoạch và chương trình nhằm nhanh chóng đổi mới một cách toàn diện ngành du lịch, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc kích thích các hoạt động kinh tế, tạo ra những lợi ích xã hội rộng lớn, bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và văn hoá, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao nhận thức về du lịch có trách nhiệm, du lịch bền vững.
    – Kiên trì đưa cách tiếp cận du lịch có trách nhiệm vào quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách phát triển du lịch nhằm giải quyết những quan ngại về môi trường, đạo đức và xã hội.
    + Tăng cường các mối quan hệ liên kết, phối hợp trong phát triển du lịch
    Phát triển du lịch theo hướng bền vững cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là trong quy trình hoạch định chính sách và lập kế hoạch. Để thực hiện được yêu cầu này, một số đề xuất cụ thể sau có thể được xem xét:
    – Hình thành tổ chức tư vấn du lịch ở cấp quốc gia để hỗ trợ ngành du lịch xây dựng, triển khai các chính sách cũng như công tác quản lý phát triển ngành.
    -Hình thành hệ thống tổ chức quản lý điểm đến liên vùng nhằm cụ thể hóa chủ trương tăng cường liên kết, phối hợp trong công tác phát triển sản phẩm du lịch và triển khai các chiến dịch xúc tiến quảng bá du lịch cho một vùng địa lý.
    + Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam
    -Các địa phương cần phối hợp, hợp tác với nhau để lựa chọn phát triển các loại hình du lịch thể hiện đầy đủ nhất giá trị của các nguồn tài nguyên du lịch trong vùng.
    -Nhấn mạnh sự khác biệt về chất lượng của môi trường tự nhiên, nét đặc sắc về văn hóa, lịch sử hình thành nên sản phẩm du lịch Việt Nam, đặc biệt chú trọng tới du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch tìm hiểu văn hóa, lịch sử.
    -Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường khách du lịch có khả năng thanh toán cao.
    -Gấp rút xây dựng và triển khai một chiến lược phát triển thị trường du lịch một cách tổng thể, hướng tới các mục tiêu dài hạn, đi kèm với một chương trình xúc tiến, quảng bá du lịch ấn tượng, hiệu quả.
    -Nhà nước cần ban hành và giám sát thực hiện các qui định về bảo vệ người tiêu dùng khách du lịch, bảo vệ môi trường du lịch, các tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ du lịch, chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm.
    + Tăng cường công tác hỗ trợ và tháo gỡ những khó khăn hiện tại của doanh nghiệp du lịch.
    -Tiếp tục mở rộng diện đơn phương miễn visa cho khách du lịch của một số thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam, tiếp tục cho miễn visa đơn phương đối với một sô nước là thị trường quan trọng đối với Du lịch Việt Nam.
    – Cho miễn thuế nhập khẩu một số lượng hạn chế phương tiện vận chuyển khách du lịch cao cấp để tạo điều kiện cho Du lịch Việt nam nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, cạnh tranh với các nước trong khu vực.
    – Cho phép ngành du lịch miễn thuế nhập khẩu một số lượng xe ca các loại 40, 45 và 50 chỗ để nâng cấp phương tiện vận chuyển khách du lịch của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam.
    – Giảm thuế đất công viên, khu vui chơi trong các dự án khách sạn resort, cho phép tính thuế đất công viên, khu vực vui chơi, đường đi trong khách sạn resort với mức 30% thuế đất xây dựng.
    – Giảm giá điện nước đối với các khách sạn, resort
    – Cơ quan Quản lý điện, nước tính giá điện nước cho các khách sạn, resort như đối với các doanh nghiệp công nghiệp.
    – Một số địa phương bỏ các quy định cấm xe ô tô vận chuyển khách du lịch ra vào thành phố vào giờ cao điểm, tạo điều kiện cho các phương tiện này được lưu thông trong đô thị vào tất cả các giờ trong ngày. Tạo điều kiện thuận lời cho việc đưa đón khách du lịch thăm quan theo đúng lịch trình tại các điểm du lịch.
    – Các hãng hàng không Việt Nam tiếp tục mở thêm những đường bay trực tiếp tới các thị trường trọng điểm và mở thêm các tuyến bay nội địa.
    4.2. Kết luận
    Du lịch được Đảng và Nhà nước ngày càng quan tâm và đánh giá cao thông qua đóng góp quan trọng của du lịch vào phát triển bền vững kinh tế-xã hội thể hiện ở thu nhập và việc làm cho đông đảo tầng lớp dân cư, góp phần giảm nghèo, tăng cường giao lưu, bảo tồn văn hóa và bảo vệ môi trường. Quá trình phát triển, du lịch đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên còn nhiều rào cản, khó khăn và hạn chế dẫn đến hiệu quả chưa cao, nguy cơ tiềm ẩn vẫn tồn tại, đặc biệt chưa tạo được khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
    Đứng trước bối cảnh và xu hướng phát triển toàn cầu và trong nước, phát triển du lịch chính là hướng đi đúng để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh kinh tế suy thoái và quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Từ thực trạng phát triển du lịch Việt Nam, trước những xu hướng và yếu tố tác động hiện nay đặt ra yêu cầu cần tập trung thực hiện có tiêu điểm những giải pháp có tính then chốt và có sức huy động tổng thể hệ thống chính trị vào cuộc.
    Để đảm bảo các giải pháp then chốt thúc đẩy phát triển du lịch được thực hiện quyết liệt và triệt để, rất cần đến sự cam kết mạnh mẽ từ trên xuống với những chỉ đạo thống nhất để thúc đẩy phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Các ngành, các cấp, các địa phương, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư phải có sự thống nhất và hợp lực theo đường lối chỉ đạo, phát huy tối ưu lợi thế của ngành du lịch để phát triển kinh tế trong nước.

    Tài liệu tham khảo
    1. Bộ VHTT&DL,Tổng Cục Du lịch, Báo cáo nghiên cứu chuyên đề “ Du lịch Việt Nam, Thực trạng và giải pháp phát triển”, 06/2014
    2. Ts. Phạm Thị Thu Hằng (2011), Viện phát triển doanh nghiệp-VCCI, Báo cáo thường niên doanh nghiệp 2011, chủ đề “Liên kết kinh doanh”.
    3. Bộ VHTT&DL ,Tồng Cục Du lịch, Vụ Lữ hành, Báo cáo tổng hợp doanh nghiệp kinh doanh Lữ hành Quốc tế, 2014
    4. Bộ VHTT&DL ,Tồng Cục Du lịch, Vụ Khách sạn, Báo cáo tổng hợp cơ sở lưu trú du lịch đã được xếp hạng, 2014
    5. Chính Phủ (2015), Chỉ thị về những hạn chế ảnh hưởng tới du lịch, 2015
    6. Bộ VHTT&DL ,Tồng Cục Du lịch, Báo cáo đề xuất triển khai chiến dịch,“chung tay cải thiện môi trường du lịch Việt Nam, 2015
    7. Chính phủ (2014), Nghị quyết về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới.
    8. Website: www.vietnamtourism.gov.vn

    Nguyễn Việt Thông – Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Đào tạo du lịch

    Bài cùng chuyên mục