Hướng dẫn Hỏi đáp Quy định
  • EnglishEnglish
  • Đánh giá hiệu quả việc tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học và công nghệ trong hoạt động nghiên cứu

       2.Hieuquanghiencuu Nghiên cứu khoa học là một trong những hoạt động nền tảng và quan trọng trong quá trình quản lý và phát triển du lịch. Nghiên cứu khoa học đóng góp những tri thức khoa học về du lịch, hay nói cách khác là cung cấp hệ thống tri thức về quy luật, sự vận động của các yếu tố tham gia vào chuỗi giá trị du lịch phục vụ quá trình quản lý hiệu quả, hợp lý. Trên cơ sở đó, phát triển du lịch dựa trên các nghiên cứu khách quan và các giải pháp phát triển Ngành được đề xuất phù hợp hơn và chính xác hơn, hướng tới nâng cao khả năng thích nghi trong xu thế phát triển và bối cảnh liên tục thay đổi.
       Tiềm lực (hay năng lực) Khoa học – Công nghệ của mỗi quốc gia đơn vị là khả năng của quốc gia hoặc đơn vị đó trong việc nghiên cứu sáng tạo, tiếp nhận, chuyển giao, khai thác phát triển các tiến bộ khoa học – công nghệ phục vụ các mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia hoặc đơn vị.
        Tiềm lực khoa học – công nghệ bao gồm: Các yếu tố vật chất: Số lượng các cán bộ, các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ, cơ sở vật chất, năng lực tài chính của các tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ. Yếu tố phi vật chất: Kiến thức trình độ của lực lượng cán bộ nghiên cứu và phát triển công nghệ, cơ chế quản lý hoạt động khoa học công nghệ.
       Việc tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học và công nghệ có ý nghĩa rất lớn trên phương diện quốc gia và đơn vị hoạt động. trong việc phát huy, tạo lập lợi thế (và vị thế) quốc gia,  giúp giải quyết những vấn đề, khó khăn, thách thức (chiến lược và cụ thể) về kinh tế – xã hội,  về an ninh – quốc phòng và là công cụ và phương tiện hỗ trợ hội nhập,  phát triển thị trường. Với đơn vị đặc biệt là các đơn vị trong lĩnh vực nghiên cứu: đây là cơ sở, tiền đề cho sự đổi mới sản phẩm và công nghệ; giúp nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, chất lượng lao động của đơn vị, và cũng là nền tảng cho sự cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị; chi phối khả năng của đơn vị trong việc hòa nhập với cộng đồng quốc tế.
       Với vai trò là cơ quan đầu ngành trong lĩnh vực nghiên cứu xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch du lịch việc tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học cả về vật chất và phi vật chất thực sự rất cần thiết, quan trọng đối với Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch để có thể phát huy tối đa năng lực, chất xám và hiệu quả công việc nhằm đáp ứng tốt nhất các nhiệm vụ do lãnh đạo cấp trên giao.

     

    Hiện trạng dự án tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học và công nghệ tại Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch
       Từ năm 2007 đến nay, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và sự tạo điều kiện của các cơ quan quản lý cấp trên trong công tác tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ, Viện được tiếp nhận các dự án của Bộ như sau:
       – Dự án: Tăng cường trang thiết bị để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ 3D trong nghiên cứu phát triển du lịch, được thực hiện năm 2007-2008.
       – Mục tiêu:
       Mục tiêu ngắn hạn: Tăng cường trang thiết bị để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ 3D trong công tác quy hoạch du lịch đồng thời đào tạo đội ngũ cán bộ để quản lý và vận hành hệ thống.
       Mục tiêu dài hạn: Làm chủ được công nghệ hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực du lịch, công tác quy hoạch và quảng bá xúc tiến góp phần tích cực vào phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam.
       – Hiệu quả đạt được khi dự án hoàn thành:
       Hiệu quả về tài chính và kinh tế: Công nghệ 3D được áp dụng trong mô hình hóa khu tuyến điểm du lịch, trong việc thành lập các bản đồ 3 chiều, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, thiết kế, đặc biệt trong lĩnh vực quy hoạch phát triển ngành. Ngoài ra, mô hình 3 chiều trực quan hỗ trợ tốt cho công tác quảng bá thu hút đầu tư vào các khu du lịch của Việt Nam
       Tăng cường và phát triển nguồn nhân lực: Thông qua việc áp dụng công nghệ 3D, cán bộ nghiên cứu và thiết kế được tiếp cận với công nghệ hiện đại do vậy năng lực nghiên cứu của các cán bộ của Viện được nâng cao, tiết kiệm thời gian và công sức trong quá trình dựng các mô hình khu, tuyến điểm du lịch.
       – Dự án: Cải tạo trụ sở và mua sắm tài sản cố định, được thực hiện năm 2009-2010.
       – Mục tiêu: Cải tạo Trụ sở, phòng làm việc và trang bị thêm các thiết bị công nghệ thông tin cho Viện để có điều kiện phục vụ tốt hơn, hiệu quả hơn cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao
       – Hiệu quả đạt được khi dự án hoàn thành:
       Tăng cường năng lực nghiên cứu cho cán bộ Viện, tiết kiệm thời gian trong việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu, triển khai các nhiệm vụ, đề án, dự án được hỗ trợ bởi các trang thiết bị khoa học hiện đại và nâng cao điều kiện vật chất đảm bảo môi trường, không gian làm việc ổn định, phù hợp với cơ quan nghiên cứu. Cụ thể:
       + Năm 2009, Viện được giao thực hiện 05 đề án phát triển du lịch quan trọng: Biển đảo, Biên giới, Cộng đồng, Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là xây dựng thành công Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng chính phủ phê duyệt; năm 2012 xây dựng Quy hoạch Tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam. Đây là những nhiệm vụ quan trọng  được Lãnh đạo cấp trên giao, là tài liệu quan trọng tham mưu cho Chính phủ, Bộ, Tổng cục Du lịch trong việc định hướng, hoạch định chính sách, giải pháp phát triển Ngành,…
       + Bên cạnh đó, từ năm 2010 chất lượng và hàm lượng khoa học của hoạt động nghiên cứu khoa học cũng được tăng lên một cách đáng kể, các đề tài nghiên cứu hầu hết đều xuất phát từ thực tiễn, mang tính thời sự và có khả năng ứng dụng cao; tiêu biểu là 02 đề tài NCKH cấp Bộ đạt loại xuất sắc, 01 đề tài NCKH được in thành sách.
       Ngoài các dự án tăng cường tiềm lực nghiên cứu về cơ sở vật chất kỹ thuật của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển và hội nhập trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, Viện cũng tranh thủ sự ủng hộ, tài trợ của Bộ, Tổng cục Du lịch và các tổ chức trong nước và quốc tế trong việc tăng cường năng lực nghiên cứu, trau dồi kiến thức cho cán bộ nghiên cứu đặc biệt là các cán bộ trẻ – thế hệ tương lai, kế cận của Viện thông qua các khóa đào tạo ngắn và trung hạn về du lịch tại Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và cử cán bộ tham gia các hội nghị, hội thảo, tập huấn để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu. Bên cạnh đó, Viện còn được tiếp nhận phương pháp, kỹ năng sử một số phần mềm phục vụ hữu ích cho tác nghiên cứu như SPSS, ARC GIS,…
       Về kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học
       Về hoạt động nghiên cứu Khoa học và Công nghệ, giai đoạn 2011 – 2015, Viện đã thực hiện 04 nhiệm vụ nghiên cứu KHCN cấp Bộ và 19 đề tài NCKHCN cấp cơ sở. Các đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính thời sự trong ngành như: du lịch có trách nhiệm, thương hiệu du lịch Việt Nam, xây dựng hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn phát triển ngành, e-marketing đối với quảng bá phát triển du lịch, phát triển du lịch dựa trên các giá trị văn hóa. Nội dung nghiên cứu bám sát nhu cầu thực tế quản lý và phát triển ngành, phù hợp với chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam.
       Ngoài các đề tài nghiên cứu trên, trong 5 năm qua, Viện cũng đã tập trung nghiên cứu nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn phát triển du lịch để có cơ sở đề xuất các giải pháp trong các quy hoạch phát triển ngành; tham mưu cho Tổng cục Du lịch trong việc xây dựng và  ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về du lịch như Luật Du lịch, Nghị định 92,…; góp ý cho các văn bản pháp quy có liên quan theo yêu cầu của Bộ và Tổng cục Du lịch; chuẩn bị các cơ sở khoa học để thẩm định, góp ý các dự án đầu tư phát triển và kinh doanh du lịch…
       Về hoạt động thông tin khoa học công nghệ, trong thời gian qua đã có những bước tiến bộ đáng kể. Trang tin điện tử (Website) của Viện đã đi vào hoạt động từ 2007 và được xây dựng lại năm 2010, cải tiến năm 2013. Các chuyên mục của trang web bao gồm: tin tức về hoạt động của Viện, ngành, các quy hoạch, đề án phát triển du lịch, số liệu thống kê về du lịch trong nước và quốc tế, các nghiên cứu, trao đổi trong lĩnh vực du lịch, Kinh nghiệm phát triển du lịch, các hội thảo, tham luận, bản tin Du lịch và Phát triển, thư viện điện tử…. Tính đến cuối năm 2015 số lượng truy cập đã lên đến hơn 1 triệu lượt và đã có gần 3.000 thành viên trong đó có 400 người đăng ký làm thành viên chính thức (tính 5/2013 đến hết tháng 12/2015) để đọc các tài liệu Khoa học công nghệ có trên website. Viện cũng đã xây dựng được thư viện với trên 1.000 đầu sách; tạp chí khoa học trong, ngoài nước và nhiều tài liệu được số hóa, trong đó có nhiều tài liệu chuyên ngành có giá trị. Trong đó, thư viện điện tử (sử dụng phần mềm Libol) của Viện cũng được đưa vào sử dụng, tạo điều kiện phục vụ bạn đọc tra cứu tìm kiếm tài liệu nhanh chóng, dễ dàng hơn. Tuy vậy, hiện nay việc sử dụng tài liệu bản cứng đang có xu hướng giảm dần, phần mềm Libol được đưa vào sử dụng khá lâu, có những trục trặc nhất định và chưa có khả năng truy cập được nội dung tài liệu để định hướng cho bạn đọc nên còn chưa hiệu quả.
       Năm 2011, lần đầu tiên Viện xuất bản Báo cáo hoạt động khoa học công nghệ – tài liệu đúc kết từ các hoạt động KHCN (tóm tắt các đề tài, dự án, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực du lịch) đã thực hiện trong năm và những bài chuyên luận về xu hướng, bài học kinh nghiệm phát triển du lịch. Đặc biệt năm 2015 đánh dấu bước thay đổi bắt kịp xu hướng hội nhập, phát triển trong hoạt động thông tin khoa học công nghệ của Viện. Cụ thể: đây là năm đầu tiên báo cáo hoạt động KHCN được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh và xuất bản được 4 số Bản tin Du lịch và Phát triển (04 số đăng tải trên website của Viện và phát hành 02 bản in).
       Bên cạnh các hoạt động thông tin khoa học tại Viện, Lãnh đạo và cán bộ nghiên cứu của Viện đã tham gia viết nhiều bài tham luận tại các hội thảo lớn nhỏ trên toàn quốc, viết bài trên chuyên mục nghiên cứu khoa học tại Tạp chí Du lịch và các tạp chí khoa học khác.
    Về hợp tác trong và ngoài nước về khoa học công nghệ, Viện đã triển khai hợp tác với một số đơn vị, tổ chức nghiên cứu trong nước, trường đại học trên toàn quốc về công tác nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, còn thực hiện một số dự án hợp tác với các tổ chức nước ngoài như JICA, UNESCO, AECID, ILO, dự án ESRT, SNV, TRC… cũng đã đánh dấu những nỗ lực trong hợp tác quốc tế và phát triển của Viện.
       Về Tình hình ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
       – Các đề tài NCKH cấp Bộ giai đoạn 2011-2015 nhìn chung đều được tổ chức triển khai đúng quy trình, huy động đông đảo chuyên gia trong và ngoài Viện tham gia, đảm bảo hàm lượng khoa học và chất lượng được đánh giá cao (02 đề tài nghiệm thu đạt loại xuất sắc, 01 đề tài nghiệm thu đạt loại khá và 01 đề tài nghiệm thu kết quả đạt).
       Trong 5 năm, Viện đã thực hiện nghiên cứu 19 đề tài NCKH cấp cơ sở. Phần lớn các đề tài đều xuất phát từ nhu cầu thực tiễn ở Viện và nhằm đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ trẻ trong công tác NCKH, làm cơ sở tiền đề cho các nghiên cứu quan trọng hơn cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu kế cận. Kết quả của các đề tài đều được đánh giá tốt, có một số đề tài đạt kết quả xuất sắc, đáp ứng đúng mục tiêu nghiên cứu đề ra cho các cán bộ trẻ.
       Bên cạnh công tác thực hiện nghiên cứu nhiệm vụ do Nhà nước, Bộ giao, Viện cũng chú trọng công tác đào tạo nhằm bồi dưỡng năng lực nghiên cứu cho các cán bộ nghiên cứu trẻ thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn của các tổ chức trong và ngoài nước, hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt khoa học,… được tổ chức thường xuyên. Nội dung các buổi tọa đàm, sinh hoạt khoa học chủ yếu xoay quanh các vấn đề liên quan công tác nghiên cứu khoa học (phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng sử dụng các phần mềm SPSS, ARC GIS,…)
       – Sản phẩm của nghiên cứu khoa học góp phần quan trọng vào việc tham mưu cho các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Tổng cục Du lịch cũng như các địa phương trong việc hoạch định chủ trương, chính sách, xây dựng chiến lược và định hướng phát triển du lịch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả nước, các vùng cũng như các địa phương; tham mưu các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quản lý du lịch đồng thời đưa ra hướng phát triển du lịch phù hợp. Sản phẩm nghiên cứu khoa học của Ngành cũng là tài liệu, tri thức quan trọng để các bộ ngành khác tham khảo, ứng dụng hoạch định chính sách, đường lối phát triển. Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu khoa học cũng là tài liệu tham khảo và là căn cứ khoa học quan trọng trong việc xây dựng Luật Du lịch, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật du lịch; xây dựng các chính sách liên quan đến phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong mối quan hệ với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và phát triển cộng đồng; là tài liệu tham khảo cho các chương trình giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng; xây dựng các sản phẩm du lịch cho các doanh nghiệp,…
       Một số đề tài khoa học được thực hiện tại Viện đã được chuyển giao cho cơ quan quản lý nhà nước tham khảo trong xây dựng các chiến lược cụ thể phát triển du lịch như các chiến lược marketing, chiến lược phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đó là các đề tài về “Nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch quốc tế trọng điểm” (2008), “Định hướng chiến lược marketing thu hút thị trường khách du lịch Nga đến Việt Nam” (2008), “Giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam” (2014).
       Mặc dù trong thời gian qua, Bộ đã quan tâm đầu tư tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học công nghệ cho đơn vị, hiệu quả trong công tác nghiên cứu có tăng lên đáng kể được Lãnh đạo cấp trên đánh giá cao. Tuy nhiên, các dự án tăng cường cho Viện còn ít (trong vòng 10 năm mới chỉ có 2 dự án) và tập trung vào các yếu tố vật chất (chủ yếu đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, trụ sở), chưa giải quyết toàn diện những vấn đề cấp thiết của Viện nhằm nâng cao tiềm lực cho tổ chức khoa học công nghệ đầu ngành về du lịch như các dự án về tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường hoàn thiện hệ thống thông tin khoa học công nghệ trong lĩnh vực du lịch phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển du lịch,… Việc đầu tư cho Khoa học công nghệ chính là đầu tư cho phát triển bền vững, trong điều kiện hội nhập thì việc tăng cường tiềm lực nghiên cứu khoa học sẽ góp phần tăng cường hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học của đơn vị, là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ được cấp trên giao phó, Viện đề xuất một số kiến nghị tăng cường tiềm lực nghiên cứu KHCN cho đơn vị giai đoạn đến năm 2021 như sau:
       – Dự án: Cải tạo trụ sở làm việc và tăng cường trang thiết bị máy móc hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển của đơn vị. Trụ sở làm việc của Viện được cải tạo từ năm 2009-2010. Tuy nhiên, do thời gian một số phần của trụ sở bị xuống cấp như: mái tôn tầng 8 (thư viện) bị ngấm gây ảnh hưởng tới việc bảo quản tài liệu nghiên cứu, hệ thống cấp thoát nước bị rò rỉ, hệ thống điện không ổn định, tủ, bàn ghế cũ mất nhiều tính năng, một số thiết bị máy móc bị hỏng… điều này gây ra nhiều bất cập trong công tác nghiên cứu, sáng tạo của cán bộ.
       – Dự án: Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ có trình độ cao, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, cán bộ khoa học và công nghệ đủ năng lực chủ trì được các nhiệm vụ quan trọng. Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo(thạc sĩ, tiến sĩ) trong và ngoài nước bằng nguồn vốn khoa học và công nghệ của Bộ. Trong xu thế toàn cầu hóa, liên kết và hội nhập thì mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, hiện nay Viện không còn là đơn vị duy nhất thực hiện công tác nghiên cứu khoa học về du lịch, vì thế nhu cầu nâng cao chất lượng nhân lực từ đó nâng cao chất lượng các sản phẩm nghiên cứu là rất cần thiết.
       – Dự án: Hoàn thiện hệ thống thông tin khoa học công nghệ trong lĩnh vực du lịch phục vụ hoạt động nghiên cứu và phát triển du lịch.
       Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định một trong những quan điểm phát triển: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.” Do vậy, việc nâng cao chất lượng góp phần thực hiện thành công mục tiêu hướng tới trở thành động lực then chốt phát triển kinh tế – xã hội nói chung và ngành Du lịch nói riêng, góp phần hiện thực hóa Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ. Một số giải phát cần được xem xét như sau:
       – Quán triệt quan điểm “trí thức, đội ngũ Khoa học và Công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Phát huy cao độ tiềm năng của đội ngũ Khoa học và Công nghệ hiện có. Đổi mới cơ cấu đào tạo, phương thức đào tạo nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nhân lực. Có quy hoạch phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học một cach quy mô và khoa học. Đề xuất phương án xây dựng, thu hút và nuôi dưỡng nhân tài trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
       – Hoạt động khoa học và công nghệ mang tính đặc thù, tìm kiếm cơ hội hợp tác, trao đổi chuyên gia nhằm nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học và công nghệ, xây dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống cộng tác viên trong nghiên cứu khoa học đủ mạnh để tạo ra nhiều hơn nữa các sản phẩm khoa học và công nghệ có chất lượng, đến ngưỡng để có thể thương mại hóa, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
       – Tăng cường gắn kết giữa các Viện nghiên cứu, trường và doanh nghiệp, để các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sự liên kết hiệu quả, bám sát thực tiễn, xuất phát từ nhu cầu của thị trường.
       – Để thúc đẩy cũng như thu hút đầu tư cho khoa học và công nghệ, cần triển khai các biện pháp huy động nguồn lực xã hội trong nước và nguồn vốn nước ngoài nhằm gia tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ thông qua việc thực thi cơ chế hợp tác công-tư.
       – Hình thành và phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học.
       Để khắc phục khó khăn và khẳng định hơn nữa vai trò của công tác nghiên cứu khoa học trong việc định hướng khai thác và phát triển ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ và nỗ lực cố gắng của nhiều ngành, nhiều cấp ở cả trong và ngoài du lịch. Bên cạnh đó việc triển khai cần có các yếu tố mang tính trọng tâm đòn bẩy và có lộ trình thực hiện phù hợp bên cạnh việc triển khai thí điểm các mô hình mới nhằm tăng cường tính hiệu quả trong công tác nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa học công nghệ. Đồng thời để đảm bảo yếu tố thành công cần có sự hỗ trợ và chung tay của các ngành, các cấp trong và ngoài du lịch bên cạnh việc tháo gỡ những vấn đề khó khăn về cơ chế, chính sách và định hướng phát triển trong và ngoài ngành. Hy vọng rằng, đây sẽ là những cải thiệt tích cực và tạo thêm động lực cho công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực du lịch phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập trong thời kỳ mới.

     Lan Hương – QLKH

    Bài cùng chuyên mục