Hướng dẫn Hỏi đáp Quy định
  • EnglishEnglish
  • Cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam

    Phát triển du lịch thông minh là xu hướng tất yếu trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), khi những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại được ứng dụng mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có du lịch. Tại Việt Nam, ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành Du lịch và phát triển du lịch thông minh là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ, hiện đang được triển khai rộng khắp trong toàn ngành.

    1. Hiểu về du lịch thông minh

    Thuật ngữ “du lịch thông minh” xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng vài năm trở lại đây, được nhắc đến nhiều khi cuộc CMCN 4.0 chính thức diễn ra. Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0, khoa học và công nghệ (KH&CN), đặc biệt là công nghệ thông tin – truyền thông (CNTT-TT) phát triển ngày càng mạnh mẽ, cho phép tạo ra các sản phẩm ứng dụng đa dạng cho ngành du lịch. Việc ứng dụng những công nghệ tiên tiến cho ngành du lịch như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, Big data, Blockchain, công nghệ 3D, 3600, công nghệ thực tế ảo và thực tế tăng cường (VR, AR), internet kết nối vạn vật (IoT), các công nghệ định vị (GIS, GPS, LBS); cùng với sự bùng nổ của của internet, mạng xã hội, hệ thống mạng cảm biến không dây (WSN) và các thế hệ mạng di động (4G, 5G),… đã góp phần làm thay đổi diện mạo của ngành du lịch, các hoạt động du lịch ngày càng được công nghệ hóa, ngày càng trở nên hiện đại hơn và thông minh hơn. Có thể nói, sự kết hợp giữa công nghệ với du lịch đã hình thành nên “du lịch thông minh”.

    Du lịch thông minh là du lịch được phát triển trên nền tảng ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông nhằm tạo ra những giá trị, lợi ích  và dịch vụ tốt nhất, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, doanh nghiệp du lịch, cơ quan quản lý du lịch và cộng đồng.

    Xoay quanh thuật ngữ “du lịch thông minh”, hiện ở Việt Nam tồn tại rất nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau. Có thể khái lược một số cách nhìn nhận về du lịch thông minh tại Việt Nam như sau:

    – Cách hiểu sơ khai : Du lịch thông minh = Smart Travel, là trào lưu du lịch mới, khác với những tour du lịch truyền thống trong đó người ta chú trọng đến lợi ích của du khách nhưng lại có mức chi phí thấp và an toàn [15]. Hiểu theo cách này, du lịch thông minh ở đây chính là “đi du lịch thông minh”, ám chỉ việc khách du lịch chủ động, tính toán, lên kế hoạch cụ thể cho chuyến du lịch một cách thông minh nhất để đạt được giá trị trải nghiệm tối đa trong khi chi phí lại ở mức tối thiểu.

    – Cách hiểu hiện nay: Du lịch thông minh = Smart Tourism, là du lịch có sự kết hợp của yếu tố công nghệ. Trong đó:

    + Du lịch thông minh là phương tiện, công cụ hỗ trợ du lịch. Hiểu theo cách này, công nghệ được ứng dụng để tạo ra các phương tiện, công cụ thông minh hỗ trợ cho các hoạt động du lịch, như: các phần mềm quản lý thông minh hỗ trợ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp du lịch, các ứng dụng và tiện ích thông minh hỗ trợ khách du lịch. Ví dụ tiện ích thuyết minh tự động, phần mềm quản lý hành chính điện tử, phần mềm quản lý hướng dẫn viên du lịch, phần mềm đặt vé trực tuyến, tiện ích chỉ đường và tìm kiếm khách sạn, khu vui chơi giải trí,…

    + Du lịch thông minh là một loại hình du lịch mới, bổ sung vào hệ thống phân loại các loại hình du lịch ở Việt Nam (du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao, du lịch MICE, du lịch thăm thâ, du lịch chữa bệnh, du lịch nông thôn, du lịch đô thị,… du lịch thông minh).

    + Du lịch thông minh là sản phẩm du lịch mới, bao gồm các dịch vụ trải nghiệm được tạo ra bằng việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến cung cấp cho khách du lịch. Ví dụ: tour du lịch thực tế ảo, phim 3D – 3600, các trò chơi giải trí công nghệ,…

    Trong giới hạn bài viết này, theo quan điểm của tác giả, du lịch thông minh là du lịch được phát triển trên nền tảng ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, nó không cụ thể cho mỗi hoạt động du lịch, mỗi loại hình du lịch, mỗi sản phẩm du lịch,… Ở đâu, khi nào có sự ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại vào du lịch thì ở đó, khi đó có du lịch thông minh. Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ứng dụng công nghệ, làm tăng hiệu quả cho công tác quản lý, hình thành “quản lý du lịch thông minh”; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, làm tăng tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh, hình thành “doanh nghiệp du lịch thông minh”; khách du lịch ứng dụng công nghệ hỗ trợ cho các hoạt động du lịch, hình thành “khách du lịch thông minh”; điểm đến du lịch ứng dụng công nghệ tiến, hình thành “điểm đến du lịch thông minh”; và tương tự với “đô thị du lịch thông minh”, “khu du lịch thông minh”,…. Mức độ “thông minh” ở đây lệ thuộc vào quy mô, tính chất và trình độ công nghệ được ứng dụng.

    2. Tiến trình phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam

    2.1. Thể chế, chính sách mở đường cho phát triển du lịch thông minh

    Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản định hướng cho việc triển khai ứng dụng KH&CN, CNTT-TT với phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng. Thể chế chính sách đi trước là rất quan trọng để khai thông, mở đường và tạo điều kiện nền tảng, hành lang pháp lý cho phát triển du lịch thông minh.

    Từ những năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ “CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại”. Vì thế, phải đẩy mạnh “ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế”. Bộ Chính trị chủ trương: “Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển”. Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2014 tiếp tục khẳng định: “CNTT phải được ứng dụng rộng rãi và trở thành một ngành kinh tế có tác động lan tỏa trong phát triển kinh tế – xã hội”. Nghị quyết số 26/2015/NQ-CP cũng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các ngành, các lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của cơ quan nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh”. Khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư bùng nổ và tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT cho các ngành, các lĩnh vực ngày càng trở nên cấp thiết. Trước bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 16/2017/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thủ tướng đề nghị các Bộ, ngành “Xây dựng chiến lược chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh”. Có thể nói, hệ thống văn bản của Đảng và Chính phủ đã mở ra định hướng chiến lược quan trọng để triển khai thực hiện ứng dụng công nghệ tiên tiến cho phát triển kinh tế – xã hội nói chung và du lịch nói riêng.

    Ngày 16/01/2017, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW, khẳng định quan điểm: “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước”. Để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, tất yếu phải đẩy mạnh ứng dụng KH&CN hiện đại. Nghị quyết 08-NQ/TW có nêu ba khía cạnh ứng dụng KH&CN với các hoạt động du lịch, gồm: xúc tiến quảng bá du lịch, đào tạo nguồn nhân lực du lịch và quản lý nhà nước về du lịch. Luật du lịch năm 2017 cũng khẳng định “nhà nước có chính sách trong việc khuyến khích hỗ trợ các hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch” (Khoản 4, Điều 5). Để tạo bước đột phá trong việc thu hút khách quốc tế đến Việt Nam, năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2017/NĐ-CP và Nghị quyết số 124/2017/NQ-CP quy định trình tự, thủ tục thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử (e-visa) cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam. Đặc biệt, trong chỉ thị số 16/2017/CT-TTg, lần đầu tiên thuật ngữ “du lịch thông minh” được nhắc đến trong một văn bản pháp quy của Việt Nam: “…ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh”.

    2.2. Tiếp cận du lịch thông minh

    Du lịch thông minh mới “chớm nở” tại Việt Nam, vì thế nó vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ. Để hiểu và nắm bắt được xu thế phát triển cũng như có những giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ nhằm phát triển du lịch thông minh, cơ quan quản lý du lịch các cấp tại Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm xoay quanh chủ đề này. Chỉ trong vài năm trở lại đây, rất nhiều hội nghị, hội thảo chuyên đề đã được tổ chức với quy mô cấp tỉnh, cấp ngành, cấp quốc gia và cấp quốc tế.

    Trong thời đại công nghệ số, việc hỗ trợ cung cấp thông tin du lịch có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với công tác quảng bá hình ảnh du lịch của Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách du lịch, doanh nghiệp và cộng đồng. Hình thức cung cấp thông tin du lịch phổ biến nhất hiện nay là thông qua các hệ thống website, cổng thông tin, trang thông tin điện tử, báo điện tử. Hiện nay, 100% cơ quan quản lý du lịch từ Trung ương đến địa phương của Việt Nam đã có website du lịch. Hầu hết các doanh nghiệp du lịch, đặc biệt là các doanh nghiệp lữ hành và các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn được xếp hạng theo thang bậc sao ở Việt Nam cũng đã có website riêng. Hệ thống báo mạng điện tử, các trang thông tin điện tử ở Việt Nam cũng thường xuyên đăng tải tin bài về du lịch và quảng bá du lịch, đặc biệt các báo lớn, các trang tin lớn… đều có chuyên mục riêng về du lịch. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ lập trình web, cho phép các nhà lập trình thiết kế, tích hợp nhiều tính năng, tiện ích đa dạng trên nền tảng web hỗ trợ các hoạt động du lịch như: bản đồ du lịch điện tử, chức năng booking online, thanh toán trực tuyến, tư vấn trực tuyến, chăm sóc khách hàng trực tuyến, các chức năng quy đổi tiền tệ, dự báo thời tiết… thậm chí có thể tạo ra sự tương tác trực tiếp của khách du lịch như góp ý, phản ánh, bình luận về các sự kiện du lịch. Bên cạnh các hệ thống website, mạng xã hội cũng là một trong những kênh quan trọng trong việc chia sẻ thông tin, trải nghiệm du lịch và góp phần quảng bá du lịch.

    Để hỗ trợ hoạt động du lịch của du khách, các địa phương của Việt Nam trong những năm qua đã nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng nhiều phần mềm, tiện ích thông minh. Trong đó, nổi bật nhất vẫn là các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội trong năm 2018 đã đưa vào sử dụng 2 phần mềm tiện ích thông minh hỗ trợ du khách gồm hệ thống thuyết minh tự động tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám và phần mềm hướng dẫn tham quan Hoàng Thành Thăng Long; một số tiện ích về bản đồ, tìm đường, trạm bus, travel guide khác cũng đã được nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng từ lâu. Thành phố Hồ Chí Minh cũng rất tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông với ngành Du lịch nhằm hướng tới mục tiêu đưa thành phố trở thành đô thị du lịch thông minh, như: đưa vào sử dụng một số trạm thông tin du lịch thông minh; đưa vào sử dụng phần mềm du lịch thông minh “Vibrant Ho Chi Minh city” và một số phần mềm tiện ích khác như “Sai Gon Bus”, “Ho Chi Minh City Travel Guide”, “Ho Chi Minh City Guide and Map”. Đà Nẵng cũng là một trong những địa phương đi đầu trong việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin – truyền thông với ngành Du lịch, phát triển mô hình du lịch thông minh. Ngoài việc thường xuyên sử dụng các phương pháp marketing điện tử để quảng bá du lịch, Đà Nẵng rất quan tâm xây dựng các hệ thống phần mềm, tiện ích hỗ trợ du khách như “Da Nang Tourism”, “inDaNang”, “ Go! Đà Nẵng”, “Da Nang Bus”. Đặc biệt, đầu năm 2018 Đà Nẵng đưa vào sử dụng ứng dụng Chatbot “Da Nang Fantasticity”, đây là công nghệ được sử dụng đầu tiên tại Việt Nam và Đông Nam Á (cùng với Singapore). Ngoài ra, một số địa phương khác như Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hưng Yên, Thanh Hóa, Quảng Bình, Cần Thơ… cũng đang phối hợp tích cực với các tập đoàn viễn thông để triển khai những dự án du lịch thông minh, sản xuất các phần mềm, tiện ích thông minh cho ngành Du lịch.

    Để phát triển du lịch thông minh, cần thiết phải phát triển và hoàn thiện hạ tầng mạng bởi đây là điều kiện quan trọng để triển khai các hoạt động du lịch online. Nhận thức được điều này, nhiều địa phương trong cả nước đã và đang triển khai lắp đặt các trạm phát wifi miễn phí. Tại Hà Nội, nhiều điểm trên địa bàn thuộc các quận trung tâm đã được lắp đặt trạm phát wifi miễn phí như khu vực quanh bờ hồ Hoàn Kiếm, các khu phố cổ, đường hoa, chợ hoa, công viên, bến xe, tuyến buýt… Một số điểm du lịch của Hà Nội cũng đang được triển khai lắp đặt gồm: Bát Tràng, Vạn Phúc, Hoàng Thành Thăng Long, Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Tại thành phố Hồ Chí Minh, hơn 100 điểm phát wifi miễn phí đã được triển khai cho ba khu vực bệnh viện, trường học, điểm công cộng tại các quận trung tâm và gần 1000 điểm phát wifi miễn phí tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn thành phố. Đà Nẵng là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước về chủ trương phủ sóng wifi miễn phí phục vụ khách du lịch và cộng đồng. Từ năm 2012, Đà Nẵng đã đầu tư gần 2 triệu USD cho dự án phủ sóng wifi. Đến nay, trên địa bàn thành phố đã có tới gần 500 trạm phát trên tất cả các tuyến đường phố chính, các điểm du lịch dọc bờ biển, các điểm du lịch dọc bờ sông Hàn, các trung tâm mua sắm, trung tâm hành chính, các điểm du lịch và các điểm công cộng khác. Ngoài ra, rất nhiều địa phương khác trong cả nước đã và đang tích cực triển khai phủ sóng wifi miễn phí như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Quảng Bình, Đà Lạt, Cần Thơ…

    Các doanh nghiệp du lịch của Việt Nam cũng rất tích cực tiếp cận CMCN 4.0 để theo kịp xu hướng kinh doanh mới, đáp ứng nhu cầu du lịch đa dạng của du khách. Nhiều doanh nghiệp đang tự cải tiến mình để trở thành những doanh nghiệp thông minh. Theo đó, các hoạt động kinh doanh hầu hết được triển khai trực tuyến: marketing, quảng bá sản phẩm; nghiên cứu mở rộng thị trường; tư vấn, chăm sóc khách hàng; thực hiện các giao dịch mua – bán, thanh toán… Các doanh nghiệp du lịch hàng đầu Việt Nam đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại trong kinh doanh du lịch như Vietravel, Saigontourist, Thiên Minh Group, Hanoitourist, Benthanhtourist… Năm 2016, sàn giao dịch du lịch trực tuyến (Tripi) đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam, cho phép giao dịch các tour trọn gói, khách sạn và vé máy bay. Đặc biệt, Tripi còn cho phép khách hàng tìm kiếm, so sánh giá các sản phẩm du lịch và cập nhật chính xác 24/24 tình trạng sản phẩm. iVIVU (ivivu.com) cũng là một trong những sàn giao dịch du lịch lớn, cho phép khách du lịch tìm kiếm thông tin, so sánh, lựa chọn và thực hiện các giao dịch đặt tour, mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn với hơn 300 tour du lịch, hơn 5.000 khách sạn tại Việt Nam và 345.000 khách sạn toàn thế giới để du khách lựa chọn; mỗi tháng ivivu.com thu hút lượng truy cập tới 10 triệu lượt. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng hơn 10 sàn giao dịch du lịch. Đây là những điểm nhấn quan trọng của các doanh nghiệp du lịch Việt về khả năng tiếp cận và thích ứng với du lịch thông minh.

    2.3. Khách du lịch thông minh

    Theo thống kê của của WeAreSocial (wearesocial.com) năm 2018, toàn thế giới có 4,02 tỷ người dùng internet (chiếm 53% trong 7,59 tỷ dân), gần 3,2 tỷ người dùng mạng xã hội, hơn 5,1 tỷ người dùng điện thoại di động (chiếm 68% dân số) trong đó chủ yếu là điện thoại thông minh có kết nối và sử dụng internet. Ở Việt Nam với 96,02 triệu dân thì có đến 64 triệu người sử dụng internet (chiếm 67% dân số), 55 triệu người dùng mạng xã hội (chiếm 57%), hơn 70 triệu người dùng điện thoại di động (chiếm 73%). Nếu tính theo tỷ lệ dân số trưởng thành thì có 97% dân số trưởng thành sử dụng điện thoại di động, 72% sử dụng điện thoại thông minh, 43% sử dụng máy tính để bàn hoặc laptop, 13% sử dụng máy tính bảng. Điều này cho thấy, tỷ lệ người dân sử dụng internet và thiết bị thông minh trên thế giới và ở Việt Nam là rất lớn. Đây là tiền đề lớn để phát triển du lịch thông minh.

    Thống kê sử dụng công nghệ số ở Việt Nam năm 2018
    (Nguồn: https://wearesocial.com/blog/2012/10/social-digital-mobile-vietnam)

    Theo thống kê của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), tỷ lệ khách du lịch trong nước đặt phòng khách sạn trực tuyến và đặt tour trực tuyến đạt hơn 60%; tỷ lệ khách du lịch quốc tế sử dụng hai dịch vụ này đạt hơn 75%, trong đó 70% khách sử dụng các dịch vụ trực tuyến ở độ tuổi dưới 35. Một khảo sát khác với khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cho thấy, có tới 71% du khách tham khảo thông tin điểm đến trên internet; 64% đặt chỗ và mua dịch vụ trực tuyến trong chuyến đi đến Việt Nam. Các số liệu thống kê cho thấy, khách du lịch sử dụng internet, các tiện ích thông minh, các thiết thông minh để tìm kiếm thông tin du lịch, tham khảo điểm đến, so sánh và lựa chọn các dịch vụ du lịch hợp lý, thực hiện các giao dịch mua tour, đặt phòng, mua vé máy bay, thanh toán trực tuyến… ngày càng có xu hướng gia tăng. Họ đang trực tiếp trở thành những vị “khách du lịch thông minh” – nhân tố quan trọng của du lịch thông minh.

    2.4. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

    Ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành du lịch và phát triển du lịch thông minh đang là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ. Trong thời gian qua, mặc dù ngành du lịch đang rất nỗ lực trong việc triển khai các giải pháp phát triển du lịch thông minh, tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập, hạn chế. Cụ thể:

    – Chính sách đặc thù về du lịch thông minh: Mặc dù hiện đã có rất nhiều văn bản pháp quy về đẩy mạnh ứng dụng CNTT-TT với phát triển kinh tế – xã hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản cụ thể nào quy định hay hướng dẫn triển khai phát triển du lịch thông minh ở Việt Nam. Một số địa phương có chủ trương phát triển du lịch thông minh nhưng quá trình triển khai còn nhiều bất cập.

    – Mô hình du lịch thông minh: Trong thời gian qua, đã có nhiều địa phương triển khai các biện pháp phát triển du lịch thông minh. Tuy nhiên, các hoạt động này diễn ra mang tính cục bộ, thiếu cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý và đặc biệt là thiếu mô hình du lịch thông minh” đảm bảo tính hiệu quả. Điều này dẫn đến đầu tư thiếu trọng điểm, thiếu tính đồng bộ, hiệu quả mang lại chưa cao. Nguyên nhân của vấn đề này là do du lịch thông minh đang là xu thế mới, chưa hình thành và chưa có tiền lệ ở Việt Nam, chưa có địa phương nào xây dựng thành công để làm mô hình học hỏi cho các địa phương khác.

    – Mức độ sẵn sàng cho phát triển du lịch thông minh: Du lịch thông minh được phát triển trên nền tảng ứng dụng KH&CN, CNTT-TT, đây được coi là điều kiện, tiền đề tiên quyết. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng về công nghệ để phát triển du lịch thông minh ở Việt Nam chưa cao.

    Chỉ số xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT của Bộ VHTT&DL trong vài năm trở lại đây xếp ở vị trí trung bình khá, từ thứ 4 đến thứ 7 trên bảng xếp hạng 19 Bộ, ngành. Trong đó, các chỉ số về hạ tầng kỹ thuật và chỉ số ứng CNTT nhiều năm xếp ở vị trí trung bình yếu (Bảng 1).

    Bảng 1. Xếp hạng của Bộ VHTT&DL về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT

    Chỉ số xếp hạng Năm 2018 Năm 2017 Năm 2016 Năm 2015
    Chỉ số xếp hạng chung 5 6 4 7
    Chỉ số Hạ tầng kỹ thuật 8 11 4 11
    Chỉ số Hạ tầng nhân lực 4 6 3 4
    Chỉ số Ứng dụng CNTT 5 10 9 11

    Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018

    Bảng 2. Các Bộ đướng đầu Bảng xếp hạng chung về chỉ số sẵn sàng ứng dụng CNTT-TT

    Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018

    Đối với cấp địa phương, ngoại trừ 5 địa phương có du lịch phát triển gồm Hà Nội, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên – Huế đứng đầu bảng xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT (Bảng 3), rất nhiều địa phương có du lịch phát triển nhưng chỉ số xếp hạng lại rất thấp như: Hải Phòng, Ninh Bình, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Lào Cai,… (Bảng 4).

    Hình 3. Top 10 địa phương đứng đầu Bảng xếp hạng về chỉ số sẵn sàng ứng dụng CNTT-TT

    Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018

    Bảng 4. Xếp hạng về chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT của 5 địa phương có du lịch phát triển năm 2018

    Tỉnh/Thành Chỉ số xếp hạng chung Xếp hạng Hạ tầng kỹ thuật Xếp hạng Hạ tầng nhân lực Xếp hạng Ứng dụng CNTT
    Hải Phòng 29/63 43 33 15
    Ninh Bình 39/63 57 28 28
    Thanh Hóa 22/63 25 11 46
    Quảng Bình 49/63 53 40 51
    Khánh Hòa 15/63 9 14 29

    Nguồn: Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam, năm 2018

    – Trình độ khoa học và công nghệ: So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là quốc gia có trình độ khoa học và công nghệ còn hạn chế. Vì thế, việc nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ ứng dụng cho du lịch vẫn còn nhiều hạn chế. Ví dụ, Thái Lan đã nghiên cứu ứng dụng được công nghệ thực tại ảo (VRT) để sản xuất các tour du lịch ảo và đưa vào khai thác sử dụng tại thủ đô Bangkok từ những năm 2015, 2016; Singapore đã nghiên cứu internet vạn vật (IoT) để thiết kế các phòng nghỉ thông minh, quản trị khách sạn thông minh tại một số khách sạn hiện đại từ những năm 2010; Hàn Quốc sản xuất hệ thống các phần mềm, ứng dụng, tiện ích thông minh cho ngành du lịch khá đầy đủ và hệ thống hay Đài Loan đã phát triển hệ thống thẻ điện tử, vé điện tử du lịch, xây dựng nhiều trung tâm du lịch thông minh (i-Center) và trạm thông tin du lịch thông minh để hỗ trợ khách du lịch nhưng ở Việt Nam còn rất hạn chế.

    – Sự tiếp cận của doanh nghiệp với du lịch thông minh còn yếu: Trong các lĩnh vực kinh doanh du lịch chính như: lữ hành, lưu trú, vận tải du lịch, ăn uống, giải trí, mua sắm,… thì khả năng tiếp cận công nghệ, phát triển du lịch thông minh chủ yếu ở một số phân nhánh như lữ hành quốc tế, vận tải hàng không, cơ sở lưu trú cao cấp. Trong đó, cũng chỉ có các doanh nghiệp hàng đầu, có tiềm lực mới có khả năng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, tiếp cận du lịch thông minh. Nguyên nhân chính do đặc điểm doanh nghiệp du lịch Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít, kinh doanh nhỏ lẻ nên khả năng tài chính chi trả cho đầu tư ứng dụng công nghệ không cao; doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú (nhà nghỉ, khách sạn 1-2 sao) chiếm số lượng lớn, đối tượng khách phục vụ chủ yếu là khách nội địa, nhu cầu khách sử dụng các dịch vụ thông minh, trực tuyến không lớn nên khả năng tiếp cận du lịch thông minh của các doanh nghiệp này còn thấp.

    3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam

    Để phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp căn bản sau:

    Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách cho phát triển du lịch thông minh

    Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách đặc thù và ban hành những văn bản cụ thể, quy định, hướng dẫn chi tiết về phát triển du lịch thông minh để định hướng cho ngành Du lịch và các địa phương trong việc triển khai thực hiện. Cơ quan quản lý du lịch các cấp cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển du lịch thông minh, có lộ trình và bước đi phù hợp. Ngoài ra, cần hoàn thiện hơn nữa thể chế chính sách liên quan đến ứng dụng KH&CN, CNTT-TT thông với phát triển kinh tế – xã hội nói chung như: các chính sách về phát triển Chính phủ điện tử, thủ tục hành chính điện tử, thương mại điện tử, phát triển giao thông thông minh, đô thị thông minh, để đồng bộ với thể chế chính sách về phát triển du lịch thông minh.

    Xác định mô hình và triển khai thí điểm

    Phát triển du lịch thông minh là định hướng chiến lược nhất quán của Đảng và Chính phủ, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển chung của thế giới. Tuy nhiên, không nhất thiết địa phương nào cũng phải phát triển du lịch thông minh. Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội, cơ sở vật chất – kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và tiềm năng phát triển du lịch,… xác định một số địa phương trọng điểm triển khai thí điểm mô hình du lịch thông minh. Đồng thời, gắn phát triển du lịch thông minh với các lĩnh vực có liên quan như đô thị thông minh, giao thông thông minh, nông nghiệp thông minh, quản lý năng lượng thông minh,… Có thể lựa chọn 3 hoặc 5 địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển, đang đứng đầu bảng xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển CNTT-TT gồm: Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên – Huế làm mô hình thí điểm cho phát triển đô thị thông minh và du lịch thông minh. Việc xác định rõ mô hình và triển khai thí điểm sẽ giúp Trung ương và địa phương tập trung được nguồn lực cho phát triển du lịch thông minh, tránh thực hiện dàn trải, manh mún, nhỏ lẻ, thiếu hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực. Kết quả của một số mô hình thí điểm này sẽ là bài học kinh nghiệm quý giá để ngành du lịch và các địa phương khác học hỏi.

    – Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin – truyền thông theo hướng ứng dụng cho ngành du lịch, tạo nền tảng công nghệ cho du lịch thông minh

    Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần có cơ chế, chính sách ưu tiên, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN cho ngành du lịch. Cần xác định và ưu tiên đầu tư cho các hạng mục công nghệ quan trọng hỗ trợ phát triển du lịch thông minh, bao gồm: xây dựng cơ sở dữ liệu ngành; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ; đầu tư sản xuất các phần mềm, hệ thống, chương trình, ứng dụng, tiện ích thông minh cho ngành du lịch; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất các sản phẩm và dịch vụ du lịch thông minh; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến cho công tác quản lý và phát triển điểm đến; ứng dụng công nghệ cho công tác thống kê du lịch; ứng dụng công nghệ cho công tác bảo tồn, phục chế các giá trị di sản, di tích phục vụ du lịch.

    Phát triển nguồn nhân lực có trình độ công nghệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ

    Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ với các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệp, nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ với phát triển du lịch thông minh; hợp tác, chuyển giao công nghệ và hợp tác đầu tư phát triển công nghệ cho Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành Du lịch cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn nhân lực ngoài trình độ chuyên môn về du lịch phải có khả năng đáp ứng yêu cầu sử dụng và vận hành công nghệ, sẵn sàng tiếp cận và thích ứng với du lịch thông minh. Thu hút nhân tài có trình độ cao về công nghệ vào làm việc trong ngành du lịch.

    Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch thông minh

    Nâng cao nhận thức của người dân về du lịch thông minh, tuyên tuyền sâu rộng nâng cao nhận thức của cộng đồng về các hoạt động du lịch trực tuyến, những ưu điểm và những tồn tại, bất cập của nó để khách du lịch và người dân hiểu, có những hoạt động tích cực, “thông minh”, tránh bị lợi dụng, lừa đảo. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận du lịch thông minh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, nâng cao hiệu quả quản lý, từng bước điện đại hóa ngành du lịch.

    4. Kết luận

    Phát triển du lịch thông minh là xu hướng tất yếu của tương lai, nó sẽ tạo ra một diện mạo mới cho ngành du lịch của Việt Nam và du lịch thế giới. Tuy nhiên, để phát triển du lịch thông minh cần phải có những điều kiện và tiền đề nhất định – nền tảng cốt yếu của nó là ứng dụng những thành tựu KH&CN tiên tiến của CMCN 4.0. Muốn phát triển du lịch thông minh, trước hết phải có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó, phải hiểu được bản chất và nắm được quy luật vận động, phát triển của nó.

    Trong một giới hạn và phạm vi nghiên cứu nhất định, bài viết “Cách mạng công nghiệp 4.0 và tiến trình phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam” trình bày một số vấn đề có liên quan đến phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam. Trên cơ sở luận giải các cách hiểu về thuật ngữ “du lịch thông minh”, bài viết phân tích tiến trình phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam thời gian qua, chỉ ra những ưu điểm, những thành tựu đã đạt được và một số khó khăn, hạn chế còn tồn tại. Qua đó, bài viết đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam trong thời gian tới./.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO:

    [1]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW về Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

    [2]. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW về Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

    [3]. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc Ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW.

    [4]. Chỉ thị số 16/2017/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

    [5]. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 08-NQ/TW về Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

    [6]. Chính phủ (2017), Nghị định số 07/NĐ-CP Quy định trình tự, thủ tục thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam.

    [7]. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 124/NQ-CP về việc Bổ sung danh sách các nước có công dân được thí điểm cấp thị thực điện tử.

    [8]. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014), Quyết định số 3728/QĐ-BVHTTDL về việc ban hành kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin của Bộ VHTT&DL giai đoạn 2016-2020.

    [9]. Bộ Thông tin truyền thông, Hội tin học Việt Nam (2018), Báo cáo tóm tắt chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam (VN ICT Index 2018), Nxb Thông tin Truyền thông, HN.

    [10]. Taiwan Tourism Bureau (2018), The Heart of Asia, Publishing rights of Tourism Bureau, Ministry of Transport, Taiwan, ISBN 978-986-05-5407-6.

    [11]. Giang Nam (2018), Phát triển du lịch thông minh, Báo Nhân Dân điện tử, website:  http://www.nhandan.com.vn/hanoi/item/35714302-phat-trien-du-lich-thong-minh.html

    [12]. Kinh tế và Đô thị: http://kinhtedothi.vn/mo-hinh-du-lich-thong-minh-diem-nhan-phat-trien-nganh-kinh-te-xanh-310544.html

    [13]. Nguyễn Nam (2018), Thời của du lịch thông minh lên ngôi, Báo du lịch điện tử, http://www.baodulich.net.vn/Thoi-cua-du-lich-thong-minh-len-ngoi-ky-2-09-16000.html

    [14]. Mai An (2018), Du lịch trực tuyến: xu hướng tất yếu nhưng… đang yếu, Sài Gòn Giải Phóng Online, http://www.sggp.org.vn/du-lich-truc-tuyen-xu-huong-tat-yeu-nhung-dang-yeu-508751.html

    [15]. Du lịch thông minh – trào lưu du lịch mới, website: https://www.vietravel.com/vn/su-kien-du-lich/du-lich-thong-minh-trao-luu-du-lich-moi-v860.aspx

    TS. Lê Quang Đăng
    Phòng nghiên cứu Chiến lược, Chính sách và Môi trường Du lịch

    Bài cùng chuyên mục