Hướng dẫn Hỏi đáp Quy định
  • EnglishEnglish
  • Nâng cao hiệu quả hoạt động quảng bá xúc tiến đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch Việt Nam giai đoạn mới

    Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được coi là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch. ITDR xin giới thiệu toàn văn  Báo cáo đề dẫn nâng cao hiệu quả hoạt động quảng bá xúc tiến  đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành du lịch Việt Nam  giai đoạn mới do Tổng cục trưởng  Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn trình bày  tại Hội nghị chuyên đề về công tác quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam diễn ra ngày 30/5/2013 tại Hà Nội.

     

    Hoithao30.5.3

    I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG QUẢNG BÁ XÚC TIẾN DU LỊCH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
    1.  Bối cảnh
    1.1. Bối cảnh quốc tế
    –   Tình hình kinh tế, chính trị trong khu vực và trên thế giới có những biến động nhiều chiều, mang lại cả thuận lợi và khó khăn cho ngành Du lịch. Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính châu Á năm 1998, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới năm 2008 đã ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế khu vực và thế giới, tác động tiêu cực tới việc làm, thu nhập của người lao động; làm thay đổi nhu cầu, xu hướng, quyết định đi du lịch, lựa chọn điểm đến của du khách, trong đó các điểm đến gần trở thành ưu tiên của một số đông khách du lịch. Tuy nhiên xu hướng du lịch vẫn phổ biến trên thế giới, do đó, mặc dù tình hình kinh tế thế giới đến nay vẫn chưa thực sự được phục hồi, Tổ chức Du lịch thế giới vẫn dự đoán mức tăng trưởng của du lịch thế giới tăng từ 3-4% trong năm 2013;
    –   Tình hình an ninh, chính trị ở một số khu vực trên thế giới có nhiều bất ổn; cùng với sự năng động của các quốc gia – điểm đến trong khu vực đã khiến châu Á nổi lên như một điểm đến mới, hấp dẫn;
    –   Vai trò của Du lịch trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng được khẳng định, không chỉ đối với các quốc gia đang phát triển, mà ngay cả đối với quốc gia phát triển. Tại Hội nghị G20 tổ chức ở Los Cabos, Mexico ngày 18-19/6/2012, các nhà lãnh đạo các nước lớn lần đầu tiên đã công nhận Du lịch và lữ hành là động lực phát triển kinh tế;
    –   Cạnh tranh của các quốc gia-điểm đến trên bình diện quốc tế và khu vực ngày càng rõ nét, quyết liệt. Các hoạt động cạnh tranh không chỉ thể hiện ở việc đổi mới sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch… mà còn thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, đặc biệt xúc tiến du lịch ở nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho khách du lịch tiếp cận điểm đến;
    –   Ở một số nước, nhất là các nước đông dân, du lịch nội địa ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong phát triển du lịch, đặc biệt trong tình hình khó khăn tài chính, kinh tế hiện nay.
    1.2. Bối cảnh trong nước
    Tình hình chính trị, xã hội trong nước ổn định; kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ cao; quy mô phát triển được mở rộng và hướng tới xuất khẩu; hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện; uy tín và vị thế chính trị, ngoại giao quốc tế của Việt Nam ngày được tăng cường. Điều này đã mở ra những cơ hội lớn cho phát triển du lịch. Tuy nhiên sự vận hành của nền kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã đặt ra nhiều vấn đề mới đối với quản lý nhà nước và kinh doanh trong du lịch, trong đó có hoạt động marketing, tuyên truyền, quảng cáo và xúc tiến, cạnh tranh và thương hiệu du lịch…
    Trong bối cảnh đó, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và Chính phủ; sự ủng hộ, phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương và đặc biệt là sự đầu tư đáng kể từ nguồn ngân sách nhà nước và xã hội hóa, ngành Du lịch du lịch nói chung và công tác xúc tiến quảng bá du lịch nói riêng đã có những bước phát triển rất đáng ghi nhận. Thông qua Chương trình HĐQG về Du lịch hai giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010; Chương trình XTDLQG giai đoạn 2009-2012, hoạt động xúc tiến du lịch được triển khai thực hiện đã góp phần đưa vị thế, hình ảnh của du lịch Việt Nam lên một tầm cao mới, có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch và nhà đầu tư quốc tế, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của Ngành.
    2. Kết quả nổi bật Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, công tác xúc tiến du lịch đạt được những kết quả nổi bật như sau:
    2.1. Nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của Du lịch, trong đó có xúc tiến du lịch đã được củng cố, nâng dần lên và chuyển biến theo hướng tích cực
    –   Các chủ trương, chính sách phát triển du lịch từng bước được thể chế hóa thông qua Luật Du lịch và hệ thống các văn bản hướng dẫn và các văn bản pháp lý liên quan; các nội dung Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam, Chương trình Hành động quốc gia về du lịch, Chương trình Xúc tiến du lịch các giai đoạn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được thực hiện, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển du lịch cũng như xúc tiến du lịch. – Từng bước tăng cường phối hợp liên ngành trong xúc tiến du lịch như phối kết hợp tổ chức các chương trình, sự kiện du lịch hoặc liên quan ở trong và ngoài nước hay áp dụng một số chính sách tạo thuận lợi cho khách du lịch nước ngoài như đơn phương miễn thị thực cho du khách từ 7 quốc gia (Nga, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Hàn Quốc, Nhật); áp dụng thí điểm chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng cho du khách; cấp giấy phép tham quan, du lịch Việt Nam cho người nước ngoài quá cảnh; tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn khách du lịch caravan; xây dựng và triển khai các Chương trình kích cầu du lịch…
    –   Tất cả các tỉnh thành trên cả nước đã có cơ quan quản lý và thực hiện hoạt động xúc tiến du lịch. Trong đó, 58/63 tỉnh thành đã thành lập Trung tâm Xúc tiến du lịch trực thuộc UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc  trực thuộc Sở VHTTDL. Các trường hợp còn lại hoạt động xúc tiến du lịch của địa phương do một phòng chuyên trách thuộc Sở thực hiện.
    –   Nhận thức về xúc tiến du lịch của doanh nghiệp được nâng lên. Các doanh nghiệp du lịch ngày càng chủ động trong các hoạt động quảng bá, xúc tiến cho sản phẩm, dịch vụ của mình cả ở trong và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp đã đặc biệt chú trọng đến đội ngũ marketing của đơn vị, đầu tư thích đáng cho đội ngũ nhân lực cũng như tài lực cho hoạt động này, qua đó từng bước xây dựng và khẳng định được thương hiệu của mình, đồng thời góp phần không nhỏ trong việc quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia.
    2.2. Qui mô và phạm vi hoạt động xúc tiến du lịch được mở rộng
    –   Các hoạt động xúc tiến du lịch ở nước ngoài đã được mở rộng về phạm vi và quy mô, bao gồm tham gia các chương trình, sự kiện văn hóa-du lịch như Tuần lễ văn hóa-du lịch Việt Nam ở nước ngoài; tham gia các hội chợ du lịch quốc tế lớn tại các thị trường trọng điểm (Top Resa tại Pháp, WTM tại Anh, ITB tại Đức, ITB Asia tại Singapore, JATA tại Nhật, CITM tại Trung Quốc, MITT tại Nga, Thaland Travel Mart Plus tại Thái Lan, các kỳ Hội chợ TRAVEX được tổ chức luân phiên tại các nước ASEAN…); triển khai nhiều chương trình giới thiệu điểm đến tại khu vực thị trường châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Ôtxtrâylia…; quảng bá trên các phương tiện truyền thông có uy tín và độ phủ rộng trên thế giới như Kênh truyền hình CNN, BBC; tổ chức đón các đoàn Fam trip, Press trip của các thị trường gửi khách trọng điểm vào Việt Nam; đẩy mạnh việc xây dựng các ấn phẩm du lịch đa dạng, nhiều ngôn ngữ; ứng dụng công nghệ thông tin trong quảng bá, tuyên truyền trên mạng internet…
    –   Các hoạt động xúc tiến du lịch được tổ chức sôi động trên phạm vi cả nước. Ở cấp trung ương, công tác xúc tiến nhằm xúc tiến hình ảnh du lịch quốc gia, điểm đến quốc gia; các vùng, địa phương xúc tiến hình ảnh điểm đến vùng, địa phương và các doanh nghiệp xúc tiến cho các sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch của mình. Các hoạt động của Trung ương và địa phương, giữa các địa phương với nhau, giữa khu vực nhà nước và tư nhân bước đầu có sự liên kết, phối hợp dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, mang lại hiệu quả rõ rệt.
    2.3. Chất lượng hoạt động xúc tiến du lịch được cải thiện và nâng cao một bước
     Công tác xúc tiến không không còn ở mức tuyên truyền quảng bá chung chung hình ảnh quốc gia, mà đã từng bước nghiên cứu thị trường, định vị thị trường trọng điểm và các phân khúc thị trường; định vị các dòng sản phẩm du lịch chính phù hợp với từng thị trường, phân khúc thị trường; định hướng xây dựng sản phẩm du lịch, phát huy ưu thế của các vùng miền, đáp ứng với nhu cầu của các thị trường du lịch Việt Nam, tích cực theo xu hướng áp dụng phương pháp xúc tiến hỗn hợp…
    Từ năm 2000, Du lịch Việt Nam đã bắt đầu xây dựng biểu tượng và tiêu đề cho các chương trình xúc tiến quảng bá với các thông điệp phản ánh giá trị cốt lõi, khác biệt nhằm định vị rõ nét hơn điểm đến Việt Nam đối với các thị trường mục tiêu. Cho đến nay, chỉ tính riêng Tổng cục Du lịch đã có 08 đề án nghiên cứu về các thị trường trọng điểm của Việt Nam, bao gồm thị trường Nga, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia và 01 đề án nghiên cứu về tình hình phát triển du lịch thế giới và những tác động đến du lịch Việt Nam. Bước đầu định vị được các sản phẩm du lịch hấp dẫn của du lịch Việt Nam bao gồm du lịch biển đảo; du lịch văn hóa, lễ hội; du lịch sinh thái và du lịch thành phố, bên cạnh những dòng sản phẩm du lịch bổ trợ (như du lịch mạo hiểm, du lịch MICE, du lịch cộng đồng…).
    2.4.Đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch ngày càng trưởng thành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng cao
    Ngày càng nhiều cán bộ, viên chức, nhân viên được đào tạo ở trong và ngoài nước về marketing, marketing du lịch tham gia tích cực vào đội ngũ làm công tác xúc tiến. Trong quá trình triển khai hơn 10 năm qua, đội ngũ này đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quí báu, có tâm huyết và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xúc tiến ngày càng cao. Đội ngũ này đã có những đóng góp tích cực trong việc tham mưu cho các cấp đề ra được những chính sách, chương trình có tính đột phá đối với hoạt động xúc tiến của du lịch, để công tác xúc tiến từng bước đi vào nề nếp và có tính chuyên nghiệp. Nhiều doanh nghiệp, đơn vị đã xây dựng được thương hiệu của mình nhờ những nỗ lực của đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên chuyên ngành này.

    3.  Tồn tại, hạn chế
    3.1.Các hoạt động xúc tiến quảng bá còn thiếu tính chuyên nghiệp và hiệu quả chưa cao
    Xúc tiến quảng bá được triển khai chưa thường xuyên, liên tục, quy mô nhỏ bé, hiệu ứng tiếp thị mới dừng ở mức độ nhất định. Công tác nghiên cứu thị trường đã bước đầu được thực hiện nhưng chưa thực sự chủ động, chưa được triển khai ngay từ đầu để làm cơ sở cho phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá và phát triển thương hiệu du lịch. Do vậy việc triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch chưa có trọng điểm, chưa có chiều sâu và đáp ứng được yêu cầu theo đuổi thị trường mục tiêu. Phạm vi, quy mô tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch còn hẹp so với yêu cầu, mục tiêu phát triển và so với các nước trong khu vực. Do nhiều nguyên nhân, nội dung, hình thức của một số hoạt động xúc tiến ở nước ngoài, đặc biệt là việc tham các hội chợ du lịch quốc tế, tổ chức các chương trình giới thiệu điểm đến còn đơn điệu, theo lối mòn, thiếu tính sáng tạo và chuyên nghiệp.
    3.2. Kinh phí dành cho xúc tiến du lịch còn nhỏ bé và cơ chế tài chính còn nhiều vướng mắc
    Những năm gần đây, kinh phí xúc tiến du lịch hàng năm từ ngân sách Nhà nước mới đạt mức 30-40 tỷ VNĐ. Tuy nhiên, con số này còn rất khiêm tốn khi so với yêu cầu thực tế và với các nước trong khu vực. Kinh phí hạn hẹp đã hạn chế đến tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả của hoạt động xúc tiến du lịch. Mặt khác, khoản kinh phí này còn bị phân tán và triển khai đồng loạt nhiều nhiệm vụ, do đó chưa tạo thành động lực mang tính đột phá làm thay đổi căn bản hoạt động xúc tiến du lịch. Đặc biệt, vấn đề kinh phí cũng hạn chế khả năng sử dụng, khai thác các hình thức, công cụ xúc tiến du lịch phổ biến và hiệu quả trên thế giới như quảng cáo trên các phương tiện thông tin truyền thông nước ngoài, ứng dụng marketing điện tử, thiết lập văn phòng đại diện du lịch ở nước ngoài…
    Cơ chế, định mức tài chính, thủ tục cấp phát kinh phí còn nhiều vướng mắc, bất cập. Thiếu chính sách ưu tiên, cơ chế tài chính huy động các nguồn lực cho hoạt động xúc tiến du lịch, cơ chế thuê tư vấn nước ngoài… Một số định mức tài chính không phù hợp (như đón các đoàn khảo sát nước ngoài). Quy trình, trình tự thủ tục xây dựng kế hoạch, thẩm định dự toán, phê duyệt và cấp phát kinh phí vẫn chưa được thông thoáng, các thủ tục hành chính, tài chính còn phức tạp.
    Cơ chế cấp kinh phí hàng năm chưa linh hoạt để có thể xây dựng và triển khai những kế hoạch xúc tiến du lịch chủ động nhằm ứng phó, hạn chế tác động tiêu cực, bất thường của những biến động trong và ngoài nước đối với lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
    3.3.Tổ chức bộ máy và lực lượng thực hiện hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều bất cập
    Tổ chức bộ máy xúc tiến du lịch còn có nhiều hạn chế, lực lượng trực tiếp triển khai hoạt động xúc tiến du lịch mỏng, hoạt động kiêm nhiệm nên việc triển khai còn bị động, thiếu tính chuyên nghiệp và hiệu quả chưa cao. Hoạt động xúc tiến du lịch với nhiều nội dung, hình thức, trải rộng trên phạm vi cả trong và ngoài nước, trong khi đó, lực lượng trực tiếp tổ chức triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch ở cơ quan quản lý du lịch Trung ương vừa phải thực hiện quản lý nhà nước, vừa tác nghiệp trực tiếp nên khó đảm bảo tốt chất lượng và hiệu quả. Ở các địa phương, bộ phận chuyên trách xúc tiến chưa được tổ chức thống nhất trong toàn quốc, đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến còn yếu và hạn chế về chuyên môn.
    Hiện nay, ngành Du lịch chưa có lực lượng xúc tiến tại chỗ thông qua các văn phòng đại diện du lịch ở nước ngoài. Điều này khiến cho các hoạt động xúc tiến du lịch chưa được tiến hành một cách sâu rộng, thường xuyên và hiệu quả tại thị trường. Thông tin cụ thể cho chuyến đi du lịch Việt Nam phục vụ đại bộ phận các đối tượng khách nước ngoài còn thiếu nhiều. Các thông tin về Du lịch Việt Nam cung cấp qua các chiến dịch xúc tiến tại chỗ, qua báo chí mới đáp ứng được một phần rất nhỏ đối với công chúng và chưa đầy đủ, thường xuyên.
    3.4.  Huy động các nguồn lực tham gia xúc tiến du lịch còn hạn chế
    Thông qua sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, hoạt động phối hợp liên ngành trong thực hiện hoạt động xúc tiến du lịch tuy đã được cải thiện, song các cấp, các ngành chưa thực sự coi đó là trách nhiệm liên quan trực tiếp của mình; sự phối kết hợp chưa thật chặt chẽ, hiệu quả để đáp ứng một trong những đòi hỏi cơ bản của hoạt động xúc tiến du lịch là tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Hoạt động xúc tiến du lịch thời gian qua tuy đã bước đầu đã kích thích, lôi cuốn được các nguồn lực tham gia nhưng còn ở mức thấp, chưa đi vào nề nếp và còn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ, cho đó trách nhiệm chủ yếu của ngành Du lịch, của các cơ quan quản lý nhà nước hoặc của cơ quan quản lý về du lịch ở Trung ương.

    4.  Bài học, kinh nghiệm
    4.1. Bài học về tranh thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo các cấp, đặc biệt lãnh đạo cấp cao
    Năm 1998, khi cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính châu Á tác động mạnh mẽ, tiêu cực đối với sự phát triển du lịch Việt Nam, kéo theo sự suy giảm trầm trọng về lượng khách du lịch, nếu cấp lãnh đạo trung ương không có quyết tâm chính trị thì Du lịch Việt Nam không thể phục hồi nhanh qua cơn khủng hoảng và tạo đà phát triển cho 10 năm tiếp theo đó. Quyết tâm chính trị khi đó được thể hiện qua việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về du lịch do đích thân Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm là Trưởng Ban; qua việc Chính phủ phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2000-2005, với các nội dung bao trùm hoạt động của cả cấp trung ương và địa phương, thổi một luồng không khí mới cho sự nghiệp phát triển du lịch trên phạm vi toàn quốc; qua việc lần đầu tiên lựa chọn một khẩu hiệu cho xúc tiến du lịch “Việt Nam – Điểm đến của Thiên niên kỷ mới”. Xúc tiến du lịch Việt Nam bắt đầu được quan tâm đầu tư từ nguồn ngân sách với tổng số kinh phí xấp xỉ 210 tỷ đồng trong 10 năm từ 2000-2010.
    Năm 2008, khi cuộc khủng hoàng tài chính thế giới lộ diện, tác động tiêu cực đến các thị trường gửi khách quan trọng vào Việt Nam, Chính phủ đã thông qua Chương trình Xúc tiến du lịch quốc gia năm 2008 và giai đoạn 2009-2010 và tiếp tục duy trì trong năm 2011-2012 (tổng kinh phí hơn 200 tỷ đồng); quyết định miễn thị thực đơn phương cho du khách từ 7 nước; quyết tâm quảng cáo trên các kênh truyền hình nước ngoài lớn như CNN và BBC; ban hành Chương trình kích cầu du lịch nội địa vào năm 2009… nhằm chặn đà suy giảm, duy trì tỷ lệ tăng trưởng của Du lịch Việt Nam trong tình hình khó khăn của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế của khu vực và thế giới.
    Quyết tâm chính trị của Lãnh đạo các cấp, đặc biệt lãnh đạo cấp cao là nhân tố quan trọng hàng đầu để Du lịch Việt Nam có thể ghi nhận được những thành tích đầy ý nghĩa vào năm 2012, trở thành một điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam.
    4.2.Bài học về huy động nguồn lực
    So với các nước láng giềng về kinh phí ngân sách nhà nước bố trí cho hoạt động xúc tiến quốc gia, kinh phí của Việt Nam còn khiêm tốn, nhỏ bé hơn rất nhiều (1,5 triệu đô la Mỹ/năm của Việt Nam so với 100 triệu đô la Mỹ của Thái Lan/năm  và 110 triệu đô la Mỹ của Malaysia). Đồng thời, theo chủ trương chung ‘tiết giảm chi tiêu công’, kinh phí cho xúc tiến sẽ dần ít đi song chúng ta thấy rõ vai trò có tính quyết định của ngân sách nhà nước đối với hoạt động này.
     Thhực tế cho thấy, tuy ngân sách nhà nước có thể chiếm tỷ trọng không nhiều trong tổng chi xúc tiến, nhưng ngân sách nhà nước là ‘vốn có tính định hướng’, và nhờ đó, các địa phương, các doanh nghiệp đã căn cứ vào đó để bố trí từ nguồn tự chủ của mình, thậm chí nhiều hơn ngân sách trung ương cấp, qua đó triển khai được đúng tầm, đủ nội dung, đạt hiệu quả một hoạt động xúc tiến cụ thể có tính quốc gia hay liên vùng, địa phương.
     Ngân sách trung ương cần đảm bảo 100% các sư kiện xúc tiến mang tầm quốc gia, có ý nghĩa chính trị (như Diễn đàn Du lịch ASEAN và Hội chợ TRAVEX kèm theo); cho việc tổ chức các Tuần lễ Văn hóa – Du lịch nhân các dịp lễ kỷ niệm lớn ở nước ngoài hoặc quảng bá trên các kênh truyền hình quốc tế có uy tín và độ phủ rộng (CNN, BBC, TV5..)
     Ngân sách Trung ương đảm bảo một phần, phần lớn còn lại do địa phương và doanh nghiệp đóng góp đối với các hoạt động xúc tiến ở qui mô vùng, địa phương hoặc các hoạt động xúc tiến lớn ở nước ngoài có sự tham gia của các địa phương và doanh nghiệp du lịch;
     Đối với các hoạt động xúc tiến theo sáng kiến của các doanh nghiệp, hoặc xúc tiến các sản phẩm, dịch vụ du lịch của doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ được cơ quan trung ương và địa phương bảo trợ thông tin, chỉ đạo nội dung. Riêng kinh phí do doanh nghiệp tự thu xếp. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp du lịch lớn như Saigon Tourist, VietTravel, Khách sạn Crown Đà Nẵng, tập đoàn Sun Group… bên cạnh việc phối hợp, hỗ trợ cơ quan du lịch Trung ương hay địa phương trong một số các hoạt động xúc tiến, quảng bá chung (như cung cấp dịch vụ mặt đất cho các đoàn Fam trip, Press trip…) còn chủ động đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho các hoạt động quảng bá, xúc tiến của riêng mình.
     Việc huy động nguồn lực giữa cơ quan trung ương, địa phương và doanh nghiệp đã bước đầu triển khai có hiệu quả, nhất là thông qua việc tổ chức Năm Du lịch Quốc gia ở các địa phương, hay tham gia các hội chợ du lịch quốc tế lớn, tổ chức các chương trình phát động thị trường ở nước ngoài; hỗ trợ đón các đoàn khảo sát sản phẩm, các đoàn báo chí quốc tế…
    4.3. Bài học về tính chuyên nghiệp, chuyên môn cao
     Du lịch Việt Nam hiện đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Vì vậy công tác xúc tiến du lịch phải từng bước chuyên nghiệp hóa, phải đảm bảo tính chuyên môn cao.
     Xúc tiến du lịch hiện nay không phải chỉ rao bán ‘cái chúng ta có” (tiềm năng du lịch), hay quảng bá hình ảnh chung chung về đất nước, mà là thực hiện đầy đủ và đảm bảo chất lượng các khâu của tiếp thị du lịch, bao gồm nghiên cứu thị trường, định hướng xây dựng sản phẩm và xúc tiến du lịch (xúc tiến sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch), xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia.
     Việc chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao đòi hỏi hoàn thiện cả về đội ngũ con người, tổ chức bộ máy, qui trình xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện một cách khoa học, đúng qui trình, kế hoạch, tiến độ.
    4.4. Bài học về công tác xúc tiến phải gắn với sản phẩm, thị trường du lịch
    Thời gian qua, các hoạt động xúc tiến quảng bá đã có những chuyển biến tích cực theo hướng gắn các hoạt động xúc tiến với các sản phẩm du lịch đặc thù, nổi trội của quốc gia, của vùng; gắn xúc tiến các sản phẩm du lịch phù hợp với từng thị trường, phân khúc thị trường chuyên biệt.
    8 đề án nghiên cứu, thúc đẩy khách du lịch tại các thị trường du lịch trọng điểm của Việt Nam do Tổng cục Du lịch triển khai, cùng với các hoạt động nghiên cứu thị trường, xây dựng sản phẩm của các địa phương, các doanh nghiệp đã khẳng định tính đúng đắn của xu hướng này.
    4.5. Bài học về sự liên kết, hợp tác trong cạnh tranh
    Các hoạt động liên kết phối hợp liên vùng, liên quốc gia trong thời gian qua đã mang lại những kết quả bước đầu cho hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch. Mô hình liên kết của 8 tỉnh miền núi Tây Bắc, của 3 tỉnh miền Trung (Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam) đã từng bước xây dựng cho thương hiệu du lịch của các vùng này.
    Việc hội nhập, hợp tác trong khu vực và thế giới là xu hướng tất yếu của phát triển kinh tế, phát triển du lịch và cả trong xúc tiến quảng bá. Hiện Việt Nam đã có những cam kết song phương, đa phương trong hợp tác phát triển du lịch, trong xúc tíến quảng bá du lịch, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN.
     Mối quan hệ này vừa có cả sự hợp tác, vừa có cả sự cạnh tranh và không kém phần khốc liệt. Một mặt chúng ta cùng với các nước ASEAN xúc tiến ASEAN như một điểm đến chung ở châu Á (khẩu hiệu “ASEAN – Cảm nhận sự nồng ấm”), mặt khác từng nhóm quốc gia cũng có những lợi ích chung để liên kết riêng (như trường hợp Thái Lan và Campuchia cùng xúc tiến chính sách thị thực chung cho hai quốc gia), và từng nước có những chính sách, đầu tư xúc tiến riêng để hút khách inbound về điểm đến – quốc gia của mình.
    Sự cạnh tranh về sản phẩm du lịch, về đơn giản hóa thủ tục cho du khách, cạnh tranh về giá, cạnh tranh về thương hiệu… ngay trong khu vực ASEAN ngày càng rõ rệt. Các  nước như Malaysia, Thái Lan… đều có những điều chỉnh về chiến lược phát triển du lịch, đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch trên thế giới, củng cố thương hiệu du lịch quốc gia, nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực.
    4.6. Bài học về sự tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế
     Sự giúp đỡ của Tổ chức Du lịch Thế giới, của các quốc gia phát triển hàng dầu về du lịch trong những năm qua đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam hòa nhập cùng với khu vực và thế giới, vì vậy du lịch Việt Nam cần tranh thủ sự hỗ trợ quí báu này, cả về chuyên gia, tư vấn; cả về kinh phí, đào tạo.
     Trong thời gian qua, Du lịch Việt Nam đã được Cộng đồng Châu Âu hỗ trợ thông qua các dự án phát triển nguồn nhân lực (Giai đoạn I) và Chương trình phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội ESRT (Giai đoạn II). Du lịch Việt Nam còn tiếp nhận sự hỗ trợ của Dự án Luxembourg về phát triển nguồn nhân lực; Dự án Tây Ban Nha về Tăng cường năng lực cho ngành du lịch Việt Nam trong thực hiện Chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030.
     Liên quan đến công tác xúc tiến du lịch, hiện tại các chuyên gia của Chương trình ESRT đang hỗ trợ Tổng cục Du lịch xây dựng Chiến lược Marketing du lịch đến năm 2020 và Kế hoạch Hành động Marketing du lịch đến năm 2015.

    II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP VỀ QUẢNG BÁ XÚC  TIẾN DU LỊCH TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

    {akeebasubs !*}  Nội dung phần II đã bị ẩn, chỉ dành cho thành viên chính thức của ITDR (có trả phí).
     Nếu là thành viên chính thức, vui lòng đăng nhập để đọc được nội dung này  {/akeebasubs} {akeebasubs *}

    Bối cảnh
    1.1. Cơ hội, thuận lợi – Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới, trên hầu hết các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và những vấn đề chung hướng tới mục tiêu thiên niên kỷ mang lại những cơ hội lớn trong hợp tác phát triển du lịch khu vực;
    –   Xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ được ứng dụng ngày càng có hiệu quả, có sức lan tỏa vô cùng nhanh và rộng, làm thay đổi căn bản phương thức quản lý và kinh doanh du lịch. Đặc biệt công nghệ thông tin truyền thông được ứng dụng mạnh trong hoạt động du lịch nói chung và xúc tiến du lịch nói riêng;
    –   Du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh nhất và lớn nhất trên bình diện thế giới, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của các quốc gia;
    –   Các dòng di chuyển vốn đầu tư và luồng khách du lịch đang có xu hướng dịch chuyển mạnh tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong đó Việt Nam được coi như một nền kinh tế mới nổi đầy triển vọng. Cùng với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện của Việt Nam, lượng khách du lịch và đầu tư nước ngoài cho phát triển du lịch Việt Nam ngày một tăng;
    –   Sự ổn định chính trị và chính sách ngoại giao cởi mở làm bạn với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới cùng với sự nhận thức đúng đắn, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước là những yếu tố rất thuận lợi mở ra cho du lịch phát triển.
    1.2. Thách thức, khó khăn
    –   Tác động tiêu cực của những yếu tố như bất ổn chính trị, xung đột, khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, tài chính tại ở các nước đối tác, các thị trường truyền thống diễn ra ngày càng mạnh mẽ, khó lường hơn, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO trong khi năng lực thích ứng và ứng phó với những biến động trên thị trường còn hạn chế;
    –   Cạnh tranh giữa các điểm đến trong khu vực  đang trở lên quyết liệt hơn, đặc biệt trong xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia. Các nước có sự phát triển mạnh về du lịch như Malaysia, Thái Lan, Singapore liên tục có sự đổi mới về sản phẩm, thương hiệu được gây dựng bài bản và các điểm đến này thường thường được nhận diện rõ rệt hơn cả trong hình ảnh chung của du lịch khu vực Đông Nam Á;
    –   Những hạn chế, yếu kém đối với hoạt động quảng bá, xúc tiến của du lịch Việt Nam như đã nêu ở trên, không thể khắc phục trong một thời gian ngắn, và phải có điều kiện nhất định;
    –   Sản phẩm du lịch Việt Nam chậm đổi mới, thiếu đặc sắc, sáng tạo và còn trùng lắp giữa các vùng miền, giá trị gia tăng hàm chứa trong sản phẩm thấp; thiếu đồng bộ và thiếu liên kết trong phát triển sản phẩm du lịch; Nghiên cứu thị trường du lịch còn nhiều yếu kém, thụ động. Xúc tiến quảng bá du lịch chưa chuyên nghiệp, chưa bài bản, hiệu quả; mới dừng ở quảng bá hình ảnh chung, chưa tạo được tiếng vang và sức hấp dẫn đặc thù cho từng sản phẩm, thương hiệu du lịch.
    2.  Quan điểm, định hướng và mục tiêu
    2.1. Quan điểm
    –   Thực hiện triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo chất lượng hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh.
    –   Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch hướng tới cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Ưu tiên tổ chức các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch quốc gia nhằm thu hút khách du lịch quốc tế, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc gia.
    –   Coi xúc tiến tại chỗ vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa lâu dài nhằm định vị Việt Nam như là điểm đến hấp dẫn, văn minh trong cảm nhận của khách du lịch quốc tế, từ đó tạo tác động tích cực đối với thị trường khách quốc tế nói chung. – Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp trong và ngoài ngành Du lịch; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch quốc gia.
    –   Kết hợp chặt chẽ các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch với các hoạt động giao lưu văn hoá, tôn tạo giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
    2.2. Định hướng  
    –   Chuyên nghiệp hóa, tập trung quy mô lớn cho hoạt động xúc tiến quảng bá. Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp thực hiện xúc tiến quảng bá du lịch; gắn kết giữa quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia với quảng bá thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp; có cơ chế phối hợp, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm hợp lý;
    –   Cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia có vai trò chủ đạo trong hoạt động xúc tiến quốc gia và hướng dẫn, hỗ trợ xúc tiến quảng bá du lịch cấp vùng, địa phương và cấp doanh nghiệp. Đề cao vai trò của các doanh nghiệp, các Hiệp hôi du lịch;
    –   Chiến lược, chương trình, chiến dịch xúc tiến quảng bá phải được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết quả các nghiên cứu thị trường và gắn chặt với chiến lược sản phẩm-thị trường và chiến lược phát triển thương hiệu. Nội dung xúc tiến quảng bá tập trung vào điểm đến, sản phẩm và thương hiệu du lịch theo từng thị trường mục tiêu;
    –   Kế hoạch xúc tiến quảng bá quốc gia lập cho giai đoạn dài hạn 5 năm và kế hoạch hàng năm; việc tổ chức thực hiện có đánh giá, kế thừa và duy trì liên tục theo thị trường; thông tin xúc tiến quảng bá phải đảm bảo tin cậy, thống nhất tạo dựng được hình ảnh quốc gia trên diện rộng và hình ảnh điểm đến vùng, địa phương, doanh nghiệp và sản phẩm;
    –   Huy động các nguồn lực và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến quảng bá theo cách liên kết, phát huy mối hợp tác và liên kết theo giữa cá thành phần Nhà nước và tư nhân, quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp và các thành phần kinh tế, xã hội; Phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan trực tiếp như Hàng không, Thương mại;
    –   Khai thác tối đa các kênh thông tin thông qua cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, thương vụ, trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài, các hãng hàng không Việt Nam, cộng đồng người Việt ở nước ngoài và hệ thống nhà hàng ẩm thực Việt Nam; thiết lập đại diện du lịch Việt Nam tại một số thị trường trọng điểm. Gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao, văn hóa;
    –   Đầu tư ứng dụng công nghệ cao cho hoạt động xúc tiến quảng bá; khai thác tối ưu công nghệ thông tin, truyền thông và phối hợp tốt với các đối tác quốc tế trong xúc tiến quảng bá du lịch.   
    2.3. Mục tiêu
    –   Chuyên nghiệp hóa các hoạt động xúc tiến du lịch, nhằm vào thị trường mục tiêu theo hướng lấy điểm đến, sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch làm đối tượng xúc tiến trọng tâm.
    –   Đẩy mạnh các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường du lịch và thúc đẩy sự tăng trưởng của khách du lịch nội địa.
    –   Xây dựng và phát triển hệ thống thương hiệu Du lịch Việt Nam bao gồm thương hiệu du lịch quốc gia, thương hiệu vùng, thương hiệu sản phẩm du lịch, thương hiệu doanh nghiệp du lịch.
    –   Tăng cường đầu tư khai thác, ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, đặc biệt chú trọng phát triển hình thức marketing điện tử phục vụ xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam.
    –   Huy động các nguồn lực và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch trên cơ sở hợp tác và liên kết giữa các thành phần Nhà nước và tư nhân, quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp và các thành phần kinh tế, xã hội.
    –   Góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng bình quân của ngành Du lịch đến năm 2020 đạt 12% năm. Năm 2020 thu hút 10,5 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 47,5 triệu lượt khách nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 18,5 tỷ USD, chiếm  khoảng 7% tổng GDP cả nước.
    3.  Các giải pháp thực hiện
    Nhằm triển khai thực hiện theo hướng chuyên nghiệp hoá hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch từ Trung ương đến địa phương, có trọng tâm trọng điểm và đảm bảo năng lực cạnh tranh quốc tế, cần thực hiện thống nhất, đồng bộ một số giải pháp sau:
    3.1. Tăng cường năng lực xúc tiến, quảng bá du lịch
    –   Cơ cấu lại tổ chức bộ máy, tập trung chức năng xúc tiến, quảng bá du lịch cho Tổng cục Du lịch với sự tham gia tích cực của Hiệp hội Du lịch Việt Nam;
    –   Thành lập các trung tâm xúc tiến quảng bá cho du lịch các địa phương và khu du lịch trọng điểm;
    –   Thúc đẩy nhanh việc thành lập và có cơ chế vận hành linh hoạt đối với các văn phòng đại điện du lịch ở các thị trường trọng điểm;
    –   Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho Vụ Thị trường du lịch (Tổng cục Du lịch).
    –   Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn, ngoại ngữ bằng nhiều hình thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch. Tổng cục Du lịch hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng và cách thức triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến quảng bá cho vùng và các địa phương.
    3.2. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến tại chỗ thông qua khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
    Tiếp nối hoạt động xúc tiến ngoài nước với mục đích thu hút khách đến Việt Nam, xúc tiến tại chỗ thông qua khách du lịch quốc tế tại điểm đến Việt Nam góp phần mang lại cho khách du lịch những trải nghiệm thực tế trọn vẹn, chân thực đúng như những thông tin, thông điệp về điểm đến, sản phẩm dịch vụ được cung cấp qua các hoạt động xúc tiến trước đó nhằm thúc đẩy lượng khách quay lại hoặc truyền miệng cho người thân, bạn bè…
    Trước tình trạng môi trường du lịch xuất hiện ngày càng phổ biến các hiện tượng đeo bám, lừa đảo, chèn ép khách du lịch, trật tự, an ninh an toàn và hàng loạt các vấn đề khác về vệ sinh, môi trường đang ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của Du lịch Việt Nam trong mắt du khách và các nỗ lực xúc tiến quảng bá đưa khách đến Việt Nam, thời gian tới, Ngành Du lịch sẽ tập trung đẩy mạnh một số nội dung xúc tiến tại chỗ như sau:
    –   Tổ chức các chiến dịch, chương trình, sự kiện tuyên truyền, giáo dục và nâng cao ý thức, văn hóa phục vụ khách du lịch, kinh doanh du lịch của doanh nghiệp và cộng động dân cư địa phương.
    –   Phát động các chiến dịch làm sạch môi trường, đặc biệt là xây dựng và làm sạch nhà vệ sinh công cộng, nhà hàng, quán ăn… tại các điểm du lịch; các chiến dịch xây dựng nếp sống văn minh, sạch sẽ nơi công cộng, không xả rác, giữ gìn vệ sinh môi trường du lịch.
    Có hình thức tuyên dương, khuyến khích các cá nhân, tổ chức thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách nhà nước trong hoạt động kinh doanh và bảo vệ môi trường du lịch.
    –   Phối hợp với các cấp, các ngành tăng cường công tác quản lý, tiếp nhận và xử lý khiếu nại của khách du lịch.
    –   Phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông để đưa tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về các nỗ lực của Ngành trong công tác chấn chỉnh môi trường du lịch.
    3.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về xúc tiến du lịch – Rà soát, đánh giá, hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xúc tiến du lịch, bao gồm cả các quy định nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật của ngành, lĩnh vực khác có liên quan;
    –   Bổ sung, làm rõ trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Du lịch một số nội dung như phát triển marketing điện tử, quản lý truyền thông, báo chí và quan hệ công chúng, quản lý sự cố và khủng hoảng, quản lý khiếu nại của khách
    du lịch…;
    –   Kiến nghị xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về những cơ chế cần thiết để giải phóng năng lực, tạo điều kiện để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch. Ban hành văn bản hướng dẫn về các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, định mức, khung giá cho các hoạt động xúc tiến du lịch;
    –   Kiến nghị xây dựng quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định tổ chức các chương trình quảng cáo trên báo, tạp chí, truyền hình nước ngoài;
    –   Kiến nghị ban hành văn bản quy định về thuê tư vấn nước ngoài trong hoạt động xúc tiến du lịch, xác định trường hợp, hoạt động cần thuê, tiêu chí lựa chọn tổ chức, cá nhân tư vấn, cơ sở xây dựng và duyệt dự toán.
    3.4. Nghiên cứu và ban hành các chính sách, cơ chế tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xúc tiến du lịch  
    –   Tăng cường ưu tiên đầu tư từ nguồn ngân sách cho công tác xúc tiến du lịch, xây dựng hình ảnh và thương hiệu du lịch quốc gia để đạt được trình độ cạnh tranh khu vực. Duy trì và tăng cường nguồn vốn ngân sách cấp cho Chương trình HĐQG về DL và Chương trình XTDLQG;
    –   Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch. Ban hành quy chế quy định cụ thể về tổ chức huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong xã hội cho đầu tư quảng bá xúc tiến du lịch, bao gồm đối tượng hưởng lợi, cơ chế huy động nguồn lực, ưu đãi và chia sẻ quyền lợi cho các đối tượng tham gia đóng góp kinh phí vào công tác xúc tiến du lịch;
    –   Kiến nghị thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển Ngành Du lịch, trong đó có một phần dành cho quảng bá xúc tiến, giúp chủ động về tài chính đối với triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch;
    Xây dựng cơ chế chính sách tài chính thuận lợi, trao quyền chủ động hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến du lịch và cho các tổ chức, cá
    nhân, các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến du lịch;
    –   Thiết lập vị trí tương đối độc lập cho Cơ quan Du lịch quốc gia để có thể chủ động huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp du lịch, huy động sự tài trợ của các tổ chức, cá nhân cho các hoạt động xúc tiến du lịch.
    3.5. Tăng cường công tác phối kết hợp với các Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến du lịch
    –   Tăng cường sự chỉ đạo, điều phối vĩ mô của Nhà nước thông qua Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch. Xác lập cơ chế, có quy định quyền lợi, nghĩa vụ cụ thể  về sự phối hợp chung giữa các Bộ, ngành trong triển khai các hoạt động xúc tiến du lịch;
    –   Xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch xúc tiến du lịch quốc gia. Trong đó hình thành Ban điều phối liên ngành, phân công rõ trách nhiệm của từng ngành hoặc cơ quan, đơn vị cụ thể, có đánh giá tổng kết hàng năm;
    –   Đẩy mạnh công tác phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam… trong việc tổ chức các chương trình, sự kiện xúc tiến du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước. Đối với mỗi chương trình, sự kiện này cần có kế hoạch tổng thể, phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị về nội dung và mức đóng góp kinh phí;
    –   Tăng cường phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức các chương trình kích cầu du lịch, các đợt khuyến mại sản phẩm, hàng hóa tiêu dùng thống nhất trong cả nước để thu hút khách du lịch mua sắm, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ;
    –   Đẩy mạnh triển khai và cụ thể hóa các nội dung thuộc thỏa thuận hợp tác giữa ngành Du lịch và Giao thông vận tải (đặc biệt là Hàng không) trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến chung trong và ngoài nước;
    –   Tăng cường phối hợp với các UBND các tỉnh, thành phố tổ chức các sự kiện du lịch, lễ hội du lịch địa phương, vùng miền; thu hút đầu tư, huy động nguồn lực cho xúc tiến du lịch; đảm bảo việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch, dự án xúc tiến du lịch của các địa phương phù hợp với các định hướng của Ngành;
    –   Ban hành quy chế phối hợp giữa ngành Du lịch và Hiệp hội Du lịch trong việc tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng bá;
    –   Ban hành quy chế phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước trong việc xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch xúc tiến du lịch. Có cơ chế chia sẻ kinh phí và lợi ích trong việc đồng tổ chức, tham gia tổ chức các hoạt động xúc tiến du lịch.
    3.6. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông phục vụ xúc tiến du lịch  
    –   Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị ứng dụng để khai thác hiệu quả công nghệ thông tin phục vụ xúc tiến quảng bá du lịch;
    Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nhằm tăng cường năng lực phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến quảng bá du lịch;
    –   Tiếp tục đầu tư củng cố nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ của Trung tâm Thông tin du lịch (Tổng cục Du lịch), cả về nhân lực và trang thiết bị để đạt mức ngang tầm các nước trong khu vực;
    –   Tăng cường hợp tác với các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc trao đổi các chuyên gia, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ cũng như  tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm, tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ để áp dụng cho hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam.
    3.7. Các giải pháp trọng tâm đến năm 2015
    3.7.1. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch Việt Nam ở nước ngoài
    –   Tổ chức các chương trình xúc tiến du lịch, giới thiệu điểm đến Việt Nam với quy mô lớn ở các thị trường trọng điểm hoặc các nước nhân sự kiện chính trị quan trọng giữa hai nước dưới hình thức Tuần Văn hoá-Du lịch Việt Nam, Lễ hội Văn hoá-Du lịch Việt Nam, Chương trình giới thiệu du lịch Việt Nam (roadshow)…
    –   Tham gia, tổ chức tham gia các Hội chợ, triển lãm du lịch quốc tế ở nước
    ngoài.
    –   Quảng bá du lịch Việt Nam trên các phương tiện truyền thông quốc tế, bao gồm quảng bá trên các kênh truyền hình quốc tế; trên một số tạp chí du lịch và giải trí phù hợp với phân khúc thị trường mục tiêu; quảng cáo pano tại nhà ga, sân bay, trên phương tiện giao thông công cộng… tại một số thị trường trọng điểm…
    –   Tổ chức các đoàn khảo sát gồm hãng lữ hành và báo chí nước ngoài đến tìm hiểu thông tin, đưa tin về du lịch Việt Nam.
    –   Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế, tổ chức, tham gia các hội nghị, hội thảo ở nước ngoài, đặc biệt tại các thị trường trọng điểm và tiềm năng nhằm tăng cường hoạt động tuyên truyền quảng bá cho Du lịch Việt Nam.
    –   Tuyên truyền, quảng bá du lịch khi xuất hiện các thách thức như thiên tai, dịch bệnh nghiêm trọng…, giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
    3.7.2. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch trong nước
    –   Tổ chức, tham gia các sự kiện du lịch, văn hóa và thể thao lớn trong nước như các các hoạt động của Năm du lịch Quốc gia, các hội chợ du lịch quốc tế do Việt Nam tổ chức, các sự kiện văn hóa và thể thao lớn…
    –   Quảng bá du lịch Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng trong nước. Phối hợp với các đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương tăng thời lượng phát sóng giới thiệu tới đông đảo quần chúng nhân dân
    những chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về Du lịch, các hoạt động du lịch, những sản phẩm du lịch mới, điểm đến mới. Duy trì và nâng cao chất lượng kênh truyền hình du lịch. Mở chuyên mục du lịch trên một số báo in có số lượng phát hành lớn.
    –   Tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên đề về xúc tiến du lịch nhằm tăng cường tính liên kết giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa khu vực nhà nước và tư nhân, nâng cao hiệu quả công tác quảng bá xúc tiến du lịch. Đăng cai tổ chức các hội nghị chuyên đề về phát triển du lịch, xúc tiến du lịch của tổ chức Du lịch Thế giới UNWTO, các tổ chức quốc tế và khu vực ASEAN, đồng thời tranh thủ các sự kiện quốc tế của khu vực ASEAN và thế giới được tổ chức tại Việt Nam để tuyên truyền, quảng bá du lịch.
    –   Xây dựng, thuê các biển quảng cáo tấm lớn, biển điện tử để giới thiệu, quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam tại các khu, điểm du lịch quốc gia, cửa khẩu quốc tế đường bộ, đường biển và đường hàng không, tại một số sân ga có lưu lượng khách du lịch lớn, các nút giao thông trong các thành phố lớn…
    –   Liên kết hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch giữa các cơ quan Trung ương và địa phương.
    3.7.3. Phát triển marketing điện tử phục vụ xúc tiến quảng bá du lịch
    –   Xây dựng và duy trì hoạt động của cổng thông tin xúc tiến và giao dịch du lịch chính thức của Du lịch Việt Nam mang tính chuyên nghiệp, hiện đại, được cập nhật liên tục, đáp ứng được các nhu cầu và xu hướng mới trong tìm hiểu thông tin và đặt dịch vụ của khách du lịch.
    –   Xây dựng ấn phẩm điện tử và phân phối qua các kênh thông tin điện tử.
    –   Quảng bá trên các trang mạng xã hội và công cụ tra cứu du lịch.
    –   Xây dựng cơ sở dữ liệu về mạng lưới đối tác trong và ngoài nước từ quản lý nhà nước về du lịch và các ngành liên quan, các đơn vị, tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ, doanh nghiệp liên quan cũng như mạng lưới đối tác cung ứng dịch vụ tổ chức quảng cáo trong và ngoài nước phục vụ các hình thức thông tin, quảng bá, xúc tiến du lịch điện tử.
    3.7.4. Xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam
    –   Xây dựng Chiến lược Phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
    –   Từng bước xây dựng, hỗ trợ xây dựng hệ thống thương hiệu du lịch Việt Nam bao gồm thương hiệu du lịch quốc gia, thương hiệu vùng, thương hiệu sản phẩm du lịch, thương hiệu doanh nghiệp du lịch.
    –   Xây dựng mô hình quản lý thương hiệu từ Trung ương đến địa phương. Thiết lập Hội đồng Thương hiệu du lịch.
    –   Tổ chức các hoạt động bầu chọn, tôn vinh các thương hiệu du lịch dịch vụ hàng đầu Việt Nam.
    –   Tổ chức các hoạt động quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước.
    3.7.5. Nghiên cứu, áp dụng mô hình văn phòng đại diện Du lịch Việt Nam ở nước ngoài
    –   Nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ đề án thành lập văn phòng đại diện Du lịch Việt Nam tại Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga.
    –   Nghiên cứu, áp dụng mô hình thay thế Văn phòng đại diện du lịch trong trường hợp không thành lập được Văn phòng đại diện du lịch ở nước ngoài (như liên kết, ủy thác cho một đơn vị của Việt Nam có trụ sở tại nước sở tại, hoặc ủy thác cho một công ty nước ngoài có kinh nghiệm quảng bá xúc tiến du lịch).
     

    {/akeebasubs}

    III. KẾT LUẬN
    Nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính chuyên nghiệp của hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch là một trong những mục tiêu quan trọng của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Việc thực hiện triển khai mục tiêu này có nhiều thách thức, đòi hỏi một cách tiếp cận và hành động chiến lược, bài bản, hệ thống và trong mối gắn kết chặt chẽ với công tác nghiên cứu thị trường, phát triển và quản lý chất lượng sản phẩm dịch vụ và phát triển thương hiệu du lịch từ trung ương đến địa phương và từ khu vực nhà nước đến tư nhân.
    Trong Hội nghị này, chúng ta cần đánh giá một cách thẳng thắn, khách quan về hiện trạng công tác xúc tiến quảng bá du lịch, đặc biệt cần phân tích những nguyên nhân của các tồn tại và trao đổi, thống nhất các giải pháp mang tính đột phá trong thời gian tới. Trong đó bên cạnh việc chú trọng tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến quảng bá du lịch, thực hiện triển khai nhiệm vụ xúc tiến quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp hóa từ trung ương đến địa phương, có trọng tâm, trọng điểm và đảm bảo năng lực cạnh tranh quốc tế, cần tìm ra giải pháp huy động nguồn lực cho công tác xúc tiến quảng bá, xây dựng hình ảnh và thương hiệu du lịch quốc gia. Đồng thời cần đầu tư nghiên cứu, đề xuất ban hành các mô hình, cơ chế hợp tác và liên kết giữa các thành phần Nhà nước và tư nhân, quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp và các thành phần kinh tế, xã hội nhằm huy động các nguồn lực cho hoạt động xúc tiến du lịch.
     
      Báo cáo đề dẫn tại Hội nghị chuyên đề về công tác quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam –  TỔNG CỤC DU LỊCH

    Bài cùng chuyên mục