Đề xuất xây dựng chương trình hành động cho khu vực doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay dựa trên nghiên cứu một số nội dung mới của Luật Du lịch sửa đổi so với Luật Du lịch 2005
1. Đặt vấn đề
Ngành Du lịch đang ở trước vận hội mới hết sức đặc biệt khi Đảng và Nhà nước đã quan tâm tạo điều kiện để Ngành phát triển. Ngày 16/1/2017, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Mới đây, ngày 19/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa 14, Quốc hội đã thông qua Luật Du lịch sửa đổi, tạo động lực mạnh mẽ để Du lịch phát triển trong thời kỳ mới.
Nghị quyết 08-NQ/TW đã nêu rõ mục tiêu cụ thể là đến năm 2020 thu hút được 17-20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 triệu lượt khách du lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỉ USD; giá trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỉ USD; tạo ra 4 triệu việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp. Đồng thời Nghị quyết đề ra 8 nhiệm vụ và giải pháp cơ bản, quy định trách nhiệm cho các cơ quan thuộc hệ thống chính trị phải hoàn thiện một số cơ chế, chính sách cản trở sự phát triển du lịch. Điển hình là các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào du lịch, chính sách về thuế sử dụng đất, giá điện, nước và thuế nhập khẩu các công cụ sản xuất cho du lịch. Nghị quyết đã giúp cho xã hội nhìn nhận, nhận thức đúng hơn về ngành Du lịch. Đặc biệt, các cấp chính quyền, đoàn thể chính trị, xã hội và cộng đồng dân cư có quyết tâm chung phát triển du lịch tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp du lịch hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhau.
Luật Du lịch sửa đổi (sau đây gọi là Luật Du lịch) đã được Ban Soạn thảo xây dựng, được Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thẩm định, được Hiệp hội Du lịch Việt Nam đóng góp ý kiến, các doanh nghiệp và nhiều tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp. So với Luật Du lịch 2005, Luật Du lịch đã cập nhật, bổ sung một số nội dung mới, phù hợp với điều kiện đất nước hiện nay. Nội dung Luật đã bao quát toàn bộ các hoạt động của ngành, tiếp thu được tinh thần chỉ đạo trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị. Luật đã quy định rõ chính sách phát triển du lịch là “Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.”
Trước tình hình đó, các cơ quan quản lý nhà nước về Du lịch, các doanh nghiệp du lịch, Hiệp hội Du lịch và các ngành chức năng liên quan đã quan tâm nghiên cứu hoàn thiện chính sách, tổ chức cơ cấu lại hoạt động của mình sao cho chuyên nghiệp hơn, chất lượng phù hợp với yêu cầu của một ngành kinh tế mũi nhọn.
Yêu cầu đặt ra là sau khi đã có các văn bản quy định pháp luật cao nhất liên quan đến định hướng phát triển du lịch theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW thì kế hoạch tiếp theo của ngành Du lịch và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay sẽ là gì?
2. Một số nội dung mới của Luật Du lịch so với Luật Du lịch 2005
– Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Luật nêu rõ nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí (cấp ngân sách) cho các lĩnh vực và nhà nước khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động cụ thể. (Điều 5)
– Tổ chức xã hội – nghề nghiệp về du lịch được quy định các nhiệm vụ cụ thể, trong đó đáng chú ý nhất là: Tham gia xúc tiến du lịch, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du lịch; đánh giá, tư vấn, thẩm định tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, chất lượng dịch vụ cho các doanh nghiệp và lao động trong ngành du lịch. (Điều 7)
– Việc bảo vệ quyền lợi của khách du lịch được làm rõ hơn. (Điều 10-14)
– Làm rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc sáng tạo, phát triển sản phẩm, chú ý đến các sản phẩm du lịch có ảnh hưởng đến tính mạng của khách du lịch (du lịch mạo hiểm), ưu tiên phát triển du lịch cộng đồng. (Điều 18-19)
– Nguyên tắc và Nội dung quy hoạch về du lịch được cô đọng lại, phù hợp với dự thảo Luật Quy hoạch. (Điều 20-22)
– Điểm du lịch, khu du lịch được biên soạn gọn lại, điều kiện, thủ tục công nhận đơn giản hơn, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân quản lý khu, điểm du lịch. (Điều 28)
– Về Đô thị Du lịch: Không quy định nội dung về đô thị du lịch trong văn bản luật.
– Quy định phải có giấy phép kinh doanh lữ hành của cả 3 loại hình: nội địa, du lịch quốc tế đến (inbound), và du lịch ra nước ngoài (outbound). Về điều kiện cấp giấy phép: bỏ yêu cầu mọi doanh nghiệp phải có 3 hướng dẫn viên, thay Giấy xác nhận kinh nghiệm công tác của người phụ trách lữ hành bằng Chứng chỉ nghiệp vụ lữ hành. Khẳng định doanh nghiệp lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được kinh doanh lữ hành quốc tế. (Điều 30-31)
– Quy định việc đăng ký xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch: Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú du lịch được tự nguyện đăng ký xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (Điều 50)
– Quy định 6 loại hình du lịch khác trong du lịch, bao gồm: Dịch vụ ăn uống; Dịch vụ mua sắm; Dịch vụ thể thao; Dịch vụ vui chơi, giải trí; Dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Các dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du lịch. (Điều 54)
– Quy định việc công nhận cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. (Điều 56)
– Quy định 3 loại hướng dẫn viên du lịch, gồm hướng dẫn viên du lịch quốc tế, hướng dẫn viên du lịch nội địa và hướng dẫn viên du lịch tại điểm. Điều kiện hành nghề đối với hướng dẫn viên du lịch quốc tế và hướng dẫn viên du lịch nội địa, gồm có: Có thẻ hướng dẫn viên du lịch; Có hợp đồng lao động với doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn hoặc là hội viên của tổ chức xã hội – nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch. (Điều 58)
– Quy định Điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch nội địa; hướng dẫn viên du lịch quốc tế; hướng dẫn viên du lịch tại điểm. Việc quản lý hướng dẫn viên được xác định rõ: Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch. (Điều 59)
– Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch, tổ chức xã hội – nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch có trách nhiệm quản lý, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề hướng dẫn, xử lý vi phạm của hướng dẫn viên. (Điều 66)
– Nâng cao vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, trong đó có việc “chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch trong nước và nước ngoài phù hợp với chiến lược, kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch quốc gia, thành lập Văn phòng xúc tiến du lịch tại nước ngoài.” (Điều 68)
– Quy định về quỹ hỗ trợ phát triển du lịch là “quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, do Thủ tướng Chính phủ thành lập, phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động.” Mục đích chính của việc thành lập quỹ là xúc tiến du lịch trong nước và nước ngoài. Quỹ được hình thành từ các các nguồn sau: Vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp; Ngân sách nhà nước bổ sung hằng năm một phần trích từ nguồn thu phí tham quan, phí cấp thị thực và các giấy tờ có liên quan đến xuất nhập cảnh Việt Nam cho người nước ngoài; Nguồn tài trợ, đóng góp tự nguyện, hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Các nguồn thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. (Điều 70)
– Quy định chức năng quản lý nhà nước về du lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, của các Bộ liên quan, và của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. (Điều 73)
Nhận định chung, Luật Du lịch đã nêu rõ các lĩnh vực Nhà nước ưu tiên cấp kinh phí và các lĩnh vực Nhà nước khuyến khích hỗ trợ. Vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp được nâng cao với các trách nhiệm cụ thể. Đặc biệt, Luật Du lịch đã nêu rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc sáng tạo, phát triển sản phẩm, ưu tiên phát triển du lịch cộng đồng.
3. Nghiên cứu chiến lược phát triển du lịch ASEAN làm căn cứ đề xuất xây dựng chương trình hành động cho khu vực doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay
Theo Hội nghị các Ngoại trưởng ASEAN tổ chức tại HuaHin, Thái Lan vào ngày 20/8/2013 xem xét tầm nhìn sau năm 2015 thì mục tiêu tổng quát của ASEAN hiện đang chuyển từ một mục tiêu liên quan tới duy trì tăng trưởng kinh tế sang việc hướng tới một kịch bản tăng trưởng kinh tế “toàn diện”, “xanh” và “dựa trên tri thức” và ngành Du lịch được xem như là một nhân tố hàng đầu trong việc đóng góp vào tầm nhìn tổng thể sau năm 2015 của ASEAN.
Nhằm nâng cao vai trò của khu vực tư nhân trong chiến lược phát triển du lịch, ASEAN định hướng như sau:
– Đảm báo tính bền vững và toàn diện của Du lịch ASEAN, đặc biệt nhấn mạnh tới hành động cốt lõi là đẩy mạnh sự tham gia của khối công tư và của cộng đồng địa phương vào chuỗi giá trị du lịch. Khu vực tư nhân đóng vai trò là nhà thầu, nhà phân phối và nhà điều hành. Như vậy, ASEAN khuyến khích khu vực tư nhân hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các đối tác quốc tế, đáp ứng tính liên ngành, liên vùng của du lịch.
– Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch. Khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân ở giai đoạn đầu tiên trong nghiên cứu phát triển sản phẩm, giai đoạn lập kế hoạch và xây dựng chu trình phát triển sản phẩm.
Kế hoạch Chiến lược Du lịch ASEAN (ATSP) đã nêu rõ mười lĩnh vực trọng tâm giai đoạn 2016-2025 do các Bộ trưởng Du lịch ASEAN thông qua tại thủ đô Nay-Pyi-Taw, Myanmar vào ngày 25 tháng 1 năm 2015. 10 lĩnh vực trọng tâm bắt nguồn từ bản phân tích những thách thức cốt lõi đối với sự phát triển bền vững của ngành Du lịch ASEAN, bao gồm:
1. Tiếp thị và xúc tiến
2. Phát triển sản phẩm/ các tiêu chuẩn
3. Phát triển nguồn nhân lực
4. Đầu tư du lịch
5. Chất lượng du lịch
6. Phát triển và tăng trưởng bền vững (bao gồm phát triển du lịch toàn diện)
7. Tao điều kiện thuận lợi cho du lịch
8. An toàn và an ninh
9. Kết nối và cơ sở hạ tầng
10. Ứng phó với biến đối khí hậu
Những lĩnh vực trọng tâm kể trên có được là bắt nguồn từ bản phân tích những thách thức cốt lõi đối với sự phát triển bền vững của ngành Du lịch ASEAN. Còn các Cơ quan du lịch quốc gia (NTO) của ASEAN đã xác định những thách thức này có liên quan đến việc thực hiện tầm nhìn ATSP giai đoạn 2016-2025. Trong đó, 6 lĩnh vực trọng tâm đầu tiên được xem là trong tầm ảnh hưởng của NTO còn các lĩnh vực trọng tâm từ 7 đến 10 là ngoài tầm ảnh hưởng của các NTO. Do đó, tham luận chuyên đề này dựa vào 6 lĩnh vực đầu tiên để xây dựng chương trình hành động cho khu vực doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Các ý kiến đề xuất còn lại dựa trên nhiệm vụ phát triển ngành Du lịch Việt Nam trong tình hình mới.
4. Đề xuất xây dựng chương trình hành động cho khu vực doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay:
1. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch:
Việc xúc tiến điểm đến là trách nhiệm của nhà nước và chính quyền các địa phương. Các doanh nghiệp du lịch có trách nhiệm xúc tiến sản phẩm du lịch.
2. Phát triển sản phẩm du lịch:
Luật Du lịch định nghĩa: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy, để phát triển sản phẩm du lịch, trước hết, mỗi doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra nét độc đáo riêng biết của mỗi dịch vụ gắn với doanh nghiệp, sau đó, xây dựng cho mình những sản phẩm du lịch riêng biệt, mang bản sắc của Việt Nam, phù hợp với nhu cầu của khách du lịch của mỗi thị trường.
3. Đào tạo nguồn nhân lực du lịch
Có kế hoạch dài hạn về đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu phát triển bền vững của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đảm bảo ngân sách cho việc đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, nghiệp vụ tốt, có nếp văn hóa ứng xử văn minh, lịch sự đối với đồng nghiệp và khách hàng.
4. Xây dựng thương hiệu và nâng cao vị thế của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp cần tập trung vào 3 hoạt động cơ bản, đó là: xây dựng sản phẩm, đào tạo nhân lực và xúc tiến du lịch. Ba hoạt động này gắn với định hướng phát triển của doanh nghiệp và hình thành nên thương hiệu của doanh nghiệp.
5. Nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của doanh nghiệp du lịch:
Tập trung phát triển các ngành nghề có lợi thế để xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tiếp cận với công nghệ mới để xây dựng hệ thống dữ liệu lớn, Internet vạn vật (IoT-Internet of things), trí tuệ nhân tạo (AI-Artifical Intelligence), thực tế ảo (Virtual Reality), để tạo ra và cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách du lịch, làm cho khách thật hài lòng khi đến Việt Nam.
6. Phát triển và tăng trưởng bền vững:
Hoạt động kinh doanh theo các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững, đầu tư nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm du lịch, đưa du lịch có trách nhiệm vào các hoạt động của doanh nghiệp.
7. Tăng cường liên kết:
Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam phần lớn là vừa và nhỏ. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phối hợp với các doanh nghiệp khác trrong hiệp hội, đặc biệt là các doanh nghiệp cùng thị trường, để tạo ra sức mạnh trong cạnh tranh.
8. Tăng cường hội nhập quốc tế:
Các doanh nghiệp du lịch tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài để khai thác thị trường thích hợp.
9. Tăng cường tiếp cận và cập nhật thông tin:
Các doanh nghiệp chủ động tiếp cận, nghiên cứu, cập nhật thông tin về chính sách, chế độ của ngành Du lịch và các ngành liên quan, các hiệp định quốc tế về du lịch để khai thác được các ưu đãi dành cho doanh nghiệp, các quy định được làm và không được làm, để góp phần đạt được hiệu quả kinh doanh cao.
10. Hợp tác song phương và đa phương với các đối tác phát triển khu vực và thế giới chính như ADB, USAID, WB, UNEP, AUSAID, UNESCO, UNWTO và UNDP trong sự phát triển bền vững của ngành Du lịch.
5. Kết luận
Luật Du lịch sửa đổi chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2018 sẽ là động lực to lớn cho ngành Du lịch nói chung và cộng đồng doanh nghiệp nói riêng tin tưởng vào bước phát triển vững chắc trong thời gian tới. Các doanh nghiệp có vai trò trụ cột trong ngành kinh tế du lịch và là lực lượng chủ yếu quyết định thực hiện thành công các mục tiêu của Nhà nước đề ra cho ngành Du lịch.
Việc các doanh nghiệp nhận thức đầy đủ Luật Du lịch, xem đây là kim chỉ nam cho kế hoạch hoạt động kinh doanh của mình sẽ có tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm du lịch, quy mô, tầm vóc của doanh nghiệp cả về nguồn lực vấn, nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần quảng bá thương hiệu của họ và của du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế./.
Chiến Thắng